Monday, July 30, 2018

Hiệp hai chiến tranh thương mại Mỹ - Trung

Nguyễn Ngọc Sẵng (Danlambao) - Trong giai đoạn một, Mỹ - Trung dùng biện pháp tăng thuế trên những hàng nhập khẩu của đối phương. 

Giai đoạn hai bắt đầu bằng việc hạ giá tiền tệ, tạo lợi thế trong xuất khẩu, mà đồng Quan của Trung Cộng đã giảm giá 6% gần đây, việc nầy được bộ Tài Chánh Mỹ lưu ý.

Theo hãng tin RIA Novosti (Nga) lúc mới bắt đầu cuộc chiến thương mại, Bắc Kinh dùng chiến thuật “ăn miếng trả miếng” để phản kích một cách có trật tự, nhưng giờ đây Trung Cộng đã bắt đầu loạn thế trận, không có trật tự.

Nhà bình luận Dmitry Kiselyov (Nga) phân tích, nhìn vào những hành động thực tế gần đây của Trung Cộng cho thấy họ đang cố gắng lôi kéo quan hệ với châu Âu, đồng thời ký kết các hiệp định thương mại. Hội nghị thượng đỉnh BRICS diễn ra hôm 20/7, cũng là cơ hội tốt mà Bắc Kinh muốn dùng để lôi kéo, mở rộng phe cánh của mình.

Ông Trump và nhiều lãnh đạo Châu Âu gần đây chỉ trích gay gắt nhau, nhưng Trung Cộng và Châu Âu khó có thể hình thành bất kỳ một loại liên minh nào để cùng chiến đấu chống lại Mỹ vì Trung Cộng và phương Tây có các giá trị và hệ thống xã hội hoàn toàn khác nhau.

Trong bài trước tôi có đề cập đến khoảng nợ tín dụng 760 tỷ USD để kích thích tín dụng toàn dân, mà hầu như không thể đòi được. Nhà cầm quyền Trung Cộng thiết lập trang mạng điện tử liệt kê tên họ những người thiếu nợ với mục đích làm họ “mắc cỡ” để trả nợ. 

Hôm 26/7/2018 trên tờ South China Morning Post đưa thêm tin về việc nầy trong bài viết toà án nhân dân ở Kaifeng Longtin, tỉnh Hồ Nam Trung Cộng dùng kỹ thuật Video lồng nhạc, tên tuổi, địa chỉ, số tiền nợ đưa ra công chúng xem để thúc đẩy việc trả nợ. Chỉ trong tuần lễ đầu đã có 8,000 lượt người xem hình nầy! Tháng trước, toà án nhân dân ở Douyin, nam tỉnh Quảng Tây đã dùng cùng biện pháp, tỉnh Anhui, tỉnh Sichuan cũng tương tự. Nhà cầm quyền Trung Cộng đang sỉ nhục nhân dân họ. Trung Cộng đang gặp khó khăn lớn về nợ tín dụng, nợ công, lẫn tín dụng đen trong xã hội.


Hình và tên con nợ trong Video, trích trong bài viết “Tik Tok, Tik Tok: Chinese court uses video platform to give debtors the hurry-up South China Morning Post” phổ biến ngày 26 tháng 7, 2018.

Trung Cộng không còn cách nào đòi số nợ khổng lồ nầy, nên “sáng tạo” những cách đòi nợ “mang sắc thái Trung Cộng”. Chẳng những không đòi được, vì món tiền vạy mượn nầy được chi dùng phần lớn cho du lịch, họ còn mang hình ảnh xấu xí người Tàu khạc nhổ, tiểu tiện, gây ồn ào nơi công cộng đi khắp nơi trên thế giới.

Ông Lui He, người cầm đầu nhóm chuyên gia trong chiến tranh thương mại Mỹ Trung đã thất bại trong việc điều đình với Mỹ, ông đã mất chức và hiện là “kiến trúc sư” cho chương trinh thúc đẩy tiêu thụ nội địa để đối phó với chiến tranh thương mại đang tiếp diễn.

Có phải chăng chính quyền Trump chọn đúng thời điểm để bắt đầu cuộc chiến thương mại, cho dù thâm hụt mậu dịch của Hoa Kỳ đã xảy ra hơn thập kỷ? Đây có phải là thời điểm tốt nhất để bắt đầu vì Trung Cộng đang sa lầy trong kế sách “một vòng đai một con đường”, chương trình mà họ tiêu tốn nhiều trăm tỷ mà chưa thấy kết qủa cụ thể, thiết thực cho sự phát triển đất nước?.

Bình luận gia kinh tế Fraser Howie, hôm 27 tháng 7 nói rằng Trung Cộng không biết cách nào để đối phó với ông Trump, họ chỉ dùng lại cách cũ họ từng làm khi đánh hơi biến cố sắp xảy đến. Ông nói trong quá khứ, Bắc Kinh mở cửa tín dung cho dòng tiền chảy ra để đối phó khi có biến cố kinh tế, và hiện tại họ đang làm như cũ cho dù hậu quả của những khủng hoảng trước chưa giải quyết xong.

Ông dẫn chứng rằng tuần qua Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc đã tuồng vào những doanh nghiệp nhỏ 74 tỉ USD để tiếp hơi cho họ. Và Ban Cố Vấn Trung Ương đã thông báo sẽ chi 200 tỉ USD vào chương trình nâng cấp hạ tầng cơ sở trên toàn quốc, đồng thời họ giảm giá trị đồng Quan 6% để đối phó với việc đánh thuế của Mỹ. Đó là những phương cách họ từng dùng.

Tương tự như cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, họ mở rông tín dụng để kích thích kinh tế. Biện pháp kích thích nầy, vào thời điểm đó, được tán thưởng như là một cứu tinh cho việc phát triển, nhưng chính nó để lại núi nợ cho đến bây giờ chưa giải quyết được hậu quả.

Một số nhận xét khác, những biện pháp tài chánh, ngân sách kịp thời nầy là sức mạnh của Bắc Kinh: chủ động, quyết đoán và có đủ tiềm năng tài chánh để đảo ngược nguy cơ. Nhưng trên thực tế đó là chỉ dấu của rối loạn.

Vài dấu hiệu khác của sự rối loạn

Một bài báo trong South China Morning Post ngày 27/7 với tựa đề: “Trung Cộng huy động 60,000 công ty thu mua hàng hoá nước ngoài để giữ thị trường Trung Cộng vẫn sinh hoạt, trước Hội Chợ Nhập Cảng" (từ ngày 5-10 tháng 11 tại Thượng Hải). 

Thứ Trưởng bộ Thương Mại Wang Bingnan cho biết sẽ huy động những chuyên viên nhập cảng, các nhà buôn, những đại lý bán sỉ, bán lẻ, nhà sản xuất, và những nhà cung cấp dịch vụ nhập cuộc để mua những sản phẩm mà Trung Cộng cần.

Hiện tại làn sóng di dời những xưởng sản xuất từ Trung Cộng đến Mã Lai, Việt Nam đang gây lo âu, xáo trộn trong giới công nhân, giới tài chính Trung Cộng.

30 năm trước đây làn sóng di dời hãng xưởng từ Hồng Kông đến Hoa Lục xảy ra ồ ạt, hôm nay họ lại gắp rút di dời hãng xưởng từ Hoa Lục đến các nước Đông Nam Á để tìm chỗ an toàn, giá thành rẻ cho những sản phẩm của họ như công ty làm đồ chơi trẻ em, đồ dùng điện tử, hàng may mặc, dụng cụ bằng nhựa để tránh ảnh hưởng cuộc chiến thương mại Mỹ Trung.

Đợt di chuyển đầu tiên nầy sẽ ảnh hưởng đến 1 triệu công việc làm và 25, 5 tỷ USD, ông Clara Chan Yuen-Shan giám đốc Hội Đồng Thương Mại các Xí Nghiệp Trẻ và Tổng Giám Đốc cộng ty cổ phần Lee Kee ở Hồng Kông tuyên bố. Họ lo ngại nếu cuộc chiến càng leo thang thì chiến dịch “tái định cư” các hãng xưởng càng lên cao. 

Trung Cộng không tìm được sách lược hữu hiệu đối phó với Hoa Kỳ, họ bị động, lúng túng và chỉ dùng những cách đỡ gạt cũ kỹ, kém hiệu quả. Vì vậy nếu cuộc chiến thương mại càng kéo dài, họ sẽ nhanh chóng kiệt quệ và sự thất bại chỉ còn là lúc nào mà thôi.

Mấy ngày nay một hiện tượng chính trị gây ồn ào, bất lợi cho chinh quyền Trump là việc ông tỏ ra thân thiện với Tổng Thống Nga Putin và mời ông đến Mỹ trong mùa hè (đã dời đến năm 2019). Có phải chăng Tổng Thống Trump muốn hòa hoãn với Liên Xô để rảnh tay triệt hạ “Con Rồng Đỏ” phương đông, một chiến lược mà cố Tổng Thống Nixon dùng để hạ bệ Liên Xô? Báo chí lề phải, một số nhà lập pháp Hoa Kỳ, giới anh ninh tình báo Mỹ chỉ trích nặng nề việc nầy, nhưng đừng đánh giá hời hợt động thái nầy của ông Trump!

Một nhà bình luận chính trị người Trung Quốc Ông Tang Hao mới đây đã trao đổi với Epoch Times rằng Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đang nỗ lực cải thiện mối quan hệ với Tổng thống Nga Vladimir Putin để cô lập Trung Cộng. 

Ông Hao nói thêm, nếu Mỹ có thể đạt được hợp tác với Nga, và tách Bắc Hàn ra khỏi chế độ cộng sản Trung Quốc, thì tình huống đó sẽ gây rất nhiều khó khăn mang tính toàn cầu cho Đảng Cộng sản Trung Quốc

Cùng nhận định trên, Ông Wen Zhao cho rằng cải thiện mối quan hệ Mỹ – Nga sẽ là cách kéo Nga ra xa Trung Quốc. 

Chúng ta hẳn còn nhớ việc Nixon-Kissinger đã thực hiện chiến lược hoà Trung chống Nga trong thập niên 70 cuối thiên niên kỷ trước, Mỹ kéo Nga vào cuộc chạy đua vũ khí để sau cùng Nga sụp đổ về kinh tế, và buộc Nga phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.

Ai biết được đầu thiên niên kỷ 21 Tổng Thống Trump hòa hoãn với Nga, dồn toàn bộ sức lực vào cuộc chiến thương mại để làm tan rã nền kinh tế lớn thừ 2 trên thế giới, từ đó biến Trung Cộng thành đế quốc cộng sản sau cùng sụp đổ.

Nixon xoá sạch cộng sản Đông Âu, Liên Xô, hy vọng Trump sẽ xoá sạch cộng sản Châu Á. Nếu Trump thành công thì chính hai nhân vật lịch sử nầy ra tay xoá sổ chủ thuyết cộng sản đã từng gieo rắc nổi kinh hoàng, từng tiêu diệt 100 triệu người dân vô tội trên hành tinh nầy!




Share

Đứng dậy mà đi

Bảo Giang (Danlambao) - Như thế, ai là người Việt Nam, còn nghĩ đến tiền đồ của tổ quốc, còn nghĩ đến công lao khó nhọc dựng nước và giữ nước của cha ông ta và còn muốn bảo tồn mảnh đất này cho con cháu mai sau thì xin hãy ngồi lại bên nhau. Xin bớt đi đôi ba lời nói nhưng thêm vào là những bàn tay. Để rồi, cùng nắm chặt lấy tay nhau, cùng đứng dậy, đạp đổ thành trì gian ác cũng như chế độ vô luân của cộng sản mà đi. Đi để đem lại Hoà Bình và Công Lý cho ngày mai. Đi để đem về Độc Lập và thạnh trị cho đất nước. Đi và đem về Tự Do no ấm cho đồng bào. Hãy nhớ, trước mặt chúng ta là ngọn lửa thiêng của dân tộc vẫn bừng cháy để dẫn đường. Bạch đằng Giang, Đống Đa lả thành lũy của dân tộc còn đây thì những kẻ như Hồ chí Minh, Lê chiêu Thống và hôm nay là những Trọng, Ngân, Phúc, Quang… rước voi về dày mả tổ sẽ chẳng có chỗ dung thân trên phần đất này.

*

I. Nhìn về thế giới sau khi có cái tên Karl Marx.

a. Đôi dòng lý lịch, tiểu sử của Marx.

Marx (Karl Marx) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier trên bờ sông Mozel, một nhánh của sông Rhein. Trier là một thành phố cổ của Đức. Thời Trung cổ, Trier là thủ đô của một công quốc lớn. 1835 Marx tốt nghiệp trung học, sau đó, vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Ít lâu sau đổi sang trường Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, Marx đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Macx bốn tuổi, Jenny vôn Vestphalen.

Karl Marx và Jenny có bảy người con. Hầu hết đều non yếu:

1. Jenny Caroline (1 tháng 5 năm 1844 - 11 tháng 1 năm 1883).

2. Jenny Laura (26 tháng 9 năm 1845 -26 tháng 11 năm 1911), Bà tự tử cùng chồng năm 1911, lúc 66 tuổi. (không nghe nói gì đến con cái).

3. Louis Charles Henri Edgar (ngày 03 tháng 2 năm 1847 tại Brussels - 6 Mai 1855), Mất năm 8 tuổi.

4. Henry Edward Guy "Guido", sinh 5 tháng 9 năm 1849 tại London, mất 19 tháng 11 năm 1850, London, Anh).

5. Jenny Eveline Frances ("Franziska", 28 tháng 3 năm 1851 - 14 tháng 4 năm 1852)

6. Jenny Julia Eleanor (16 tháng 1 năm 1855 - ngày 31 tháng 3 năm 1898), sinh tại London. Bà là một nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa. Bà tự tử ở tuổi 43 bằng cách uống axit prussic, sau khi phát hiện ra rằng người tình lâu năm của mình, Edward Aveling, đã bí mật kết hôn với một nữ diễn viên trẻ tên là Eva Frye vào tháng 6 năm 1897.

7. Một đứa trẻ chưa được đặt tên, sinh ra và qua đời ngày 06 tháng 7 năm 1857 tại London.

b. Đời hoạt động

Marx gặp Friedrich Engels vào khoảng cuối tháng 11 năm 1842, khi Engels sang Anh và ghé thăm Bộ Biên tập tờ Rheinische Zeitung.Mùa hè năm 1844, Engels gặp lại Mark ở Paris. Sau chuyến gặp gỡ này, F. Engels thành người nuôi nấng, bao bọc lo hết mọi chi phí trong sinh hoạt của Mark. Y ăn bám vào Engels cho đến khi chết. Dòng dõi của Y không nghe ai nhắc đến, sau này.

II. Nhân vật Hồ Quang cũng gọi là Hồ Chí Minh.

Trong khi đó, một người ở phương nam có tên là Nguyễn Tất Thành, bị đuổi khỏi trường quốc học Huế khi vừa vào lớp sáu vài tháng. Sau đó, Thành vào Phan Thiết xin được chân giáo viên thể dục tại trường Dục Thanh. Ít lâu sau, Thành vào Sài Gòn và xin được chân bồi bàn và rửa chén dưới tàu Pháp Latouche-Tréville với tên Văn Ba. Rồi theo con tàu này, Thành đã bôn ba qua nhiều nước như Pháp, Anh, Hoa Kỳ.

Sau lần được nhóm của cụ Phan Chu Trinh cử đi dự hội tại Versailles để trình thỉnh nguyện thư gồm tám điểm của nhóm là:

"· Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.

· Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lý như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam.

· Tự do báo chí và tự do ngôn luận.

· Tự do lập hội và hội họp.

· Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.

· Tự do họp tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ.

· Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. 

· Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.(wikipedia)"

Ai cũng biết nhóm hoạt động này đã được thành lập trước đó từ lâu và do các nhà trí thức Việt Nam tại Pháp như cụ Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền và và Phan Văn Trường lãnh đạo. Tất cả các bài vở, hoạt động của nhóm đều ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau này Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành cũng được gia nhập vào chung vời nhóm trong vai trò thư ký và phân phối báo. Tuy nhiên, nhờ chuyến đi này Nguyễn Tất Thành đã cướp luôn cái tên Nguyễn Ái Quốc và công sức của nhóm trí thức Việt Nam. Từ đây Thành nổi lên với cái tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng không bao giờ dám trở lại Paris để gặp nhóm trí thức kia nữa. Sau đó, Y gia nhập đảng CS Pháp rồi sang Liên Sô, về Việt Nam, Trung cộng. Quốc có tên trong danh sách thành lập đảng cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông vào 3-2-1930. Quốc bị kết án tử hình vắng mặt tại Việt Nam. Sau này Y bị bắt ở Hồng Kông. Sau hai năm tù, Y được thả, và có nhiều nguồn tin khẳng định rằng Y bị bệnh lao phổi nặng và đã chết sau đó ít lâu. Khi Y chết có cả các đồng chí Việt Nam của Y ở Liên sô đến dự tang lễ tiễn đưa.

Tuy nhiên, vì nhu cầu, sau này xuất hiện một nhân vật là Hồ Quang (1939) đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, Y mang hàm thiếu tá thuộc Bát lộ quân Trung cộng dưới quyền Chu Đức. Người này sang Việt Nam hoạt động và bị Trung hoa quốc gia bắt khi trở lại Trung Hoa vào ngày 29-8-1942. Từ vụ bị bắt này, Y đổi tên là Hồ Chí Minh và nhờ sự can thiệp của Việt Nam quốc dân Đảng, Y đã được thả ra. Y trở lại Việt Nam hoạt động theo sự điều động của Trương Phát Khuê, viên tướng thuộc Trung Hoa Quốc Dân Đảng, dưới quyền của Tưởng Giới Thạch. Trên đường về Việt Nam lần này, Y đã triệt hạ mọi người thuộc VNQDĐ và không đảng phái. Y phục vụ cho cộng sản QT và được Chu Ân Lai, Mao trạch Đông cũng như Liên Sô trợ giúp tích cực.

III. Những nét tương đồng của Mark và Minh.

Hồ Chí Minh đi theo Kark Marx, Y cũng có nhiều điểm tương đồng với Marx.

a. Cả hai cùng có tên với mẫu tự “M”.

b. Mark hầu như không có kẻ nối dõi tông đường. Minh có cũng như không vì Y có vợ có con, nhưng cũng không dám nhận. Rút cuộc, Y vẫn…. độc thân theo lời tuyên truyền của Việt cộng!

c. Mark chỉ có một bà vợ chính thức. Minh có nhiều nhưng lại không dám nhận là có vợ.

d. Cả hai đều nổi danh là những kẻ sát nhân trên trường quốc tế. Marx viết ra thuyết Cộng sản giúp Stalin, Mao giết không dưới 60 triệu người Nga và Trung Hoa. Minh đem áp dụng và đem lại cái chết cho khoảng trên 3 triệu người Việt Nam.

e. Mark là người lúc nào cũng chững chạc với tên tuổi của mình. Trong khi đó, Minh có hơn 125 cái tên, và hầu như tất cả mọi công việc của Y đều là lén lút. Lén lút, dối trá, phi đạo nghĩa cho đến khi chết. Ngay cả cái lý lịch bản thân của Y đến nay vẫn còn là một câu hỏi lớn.

IV. Việt Nam đi về đâu sau quỹ đạo của Hồ Quang, tức Hồ Chí Minh?

“Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.” (Chính Đề, tác giả Ngô Đình Nhu.)

Trong khi đó, nhiều người khác lại cho rằng Hồ Chí Minh là một người giỏi, nếu như không muốn nói là rất giỏi. Y đã mở ra được trường phái dối trá lừa đảo và sống sung mãn với nó.

a. Về tình trường.

Hồ Quang tức Hồ Chí Minh là người cao tay, Y đã trấn áp được khá nhiều em gái. Tất cả những người này, dù còn sống, bị bỏ rơi hay đã bị Hồ Chí Minh hành quyết, trừ khử, đều không dám có một lời hé răng! Đã thế, chính những kẻ được cho là con ruột của Hồ Quang, hiện nay vẫn còn sống, cũng không dám có nửa lời lên tiếng minh oan cho cá nhân hay cho chính người mẹ ruột của mình đã bị Hồ sát hại.

Ai cũng biết rõ Hồ đã qua tay những người đàn bà như: Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Thị Minh Khai, Vera Vasilieva, Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Trưng, Nông Thị Xuân… Nhưng tập đoàn VC, xưa kia là Duẩn, Đồng, Chinh, Giáp rồi Mười, Phát, Thọ, Linh, Phiêu, Kiệt, Mạnh rồi Dũng, Sang… đến Trọng, Quang, Phúc Ngân… hoặc bất cứ một tên đoàn, đảng viên hạng bét ở xóm làng, góc phố đều hết lòng ca tụng “ bác” là người sống độc thân thì đủ biết tư cách của cái tập thể VC này ra sao.

b. Đời sống, xã hội.

Ở Việt Nam không có tục lệ gọi họ thay cho tên. Các vua chúa, quan tước xưa kia thường dùng một danh hiệu nào đó để gọi thay cho tên tục như Đức Quang Trung, Đức Trần hưng Đạo, Đức Lê Thái Tổ… Tuy nhiên, dù chỉ là một bần cố nông thôi, người Hoa ở Việt Nam (kể cả việt gốc Hoa) thường gọi họ thay cho tên sau khi đã lập gia đình, hoặc có chút danh vọng. Như thế, tại sao Hồ chí Minh ngay từ đầu lại muốn và được gọi là “ bác Hồ”. Y là Tàu hay Việt?

Bỏ qua cái tên lạ lẫm, phải nói ngay rằng, Y có tài hơn người. Y đã tổ chức được một đảng phái với các thành viên không hề biết nói thật trong đời. Nghĩa là, đã là đoàn đảng viên VC thì phải nói dối, lừa gạt nhau và lừa phỉnh người đời mọi lúc mà sống. Hơn thế, họ còn phải đem cái tài dối trá này truyền vào trong đời sống gia đình của mình, cũng như trong nhân gian. Thí du: làm cầu với cốt tre, bao xốp, nhưng vẫn phải làm báo cáo xi măng cốt sắt, sau đó, gặp mưa to, nó đổ ập xuống thì… tại vì mưa lớn quá, hoặc xe quá tải chạy ngang qua! Thế là hết trách nhiệm.

c. Về chính trị.

Hồ Chí Minh có một khả năng nhận định sâu xắc và biết rõ cái đảng cộng sản của Y sẽ hành động ra sao. Ngay từ 1946. Y đã mượn danh nghĩa chống Pháp, kể tội Pháp, nhưng trong thực tế là Y đã vẽ đường cho cái đảng CS Đông Dương do Y lãnh đạo phải có những hành động côn đồ đối với nhân dân Việt Nam như những điểm ghi dưới đây:

- “Chúng (Việt cộng) tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

- Chúng (VC) lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm những cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

- Chúng (VC) ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

- Chúng (VC) bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thôn, nước ta xơ xác tiêu điều.

- Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu

- Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng

- Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.

Bài viết của Hồ Chi Minh trên đây chỉ còn thiếu hai tiểu tiết nữa là hoàn chỉnh, lột trần được bộ mặt thật của chế độ CS đối với người dân Việt Nam hôm nay:

d. Về tôn giáo:

- Chúng đập phá Chùa, Đền, Miếu, Nhà thờ và cướp đoạt tất cả tài sản, đất đai của các tôn giáo ta.

e. Về địa lý:

- Chúng đã đưa đất nước Việt Nam ta vào vòng nô lệ cho Trung cộng. Ngoài khơi ta đã mất hẳn Hoàng Sa, Trường Sa. Biên giới thì những Ải Nam Quan, núi Lão Sơn, biển Tục Lãm chúng đều dâng cho giặc. Phần nội địa thì rừng đầu nguồn, khai thác Bauxite rồi Formosa… Nhiều cửa biển của các thành phố thì dân ta không còn được bước chân đến. Bởi lẽ, đâu đâu cũng là nhà Tàu, rừng Tàu, rồi thành phố Tàu chiếm ngụ…

Trên đây là những lý do cho biết tại sao, ngay từ khi Y lên cầm quyền và thiết lập chế độ cộng sản bạo tàn trên đất nước này, vào năm 1954 đã có tới một triệu người miền bắc phải quang gánh lìa quê hương chạy vào nam mà trốn Cộng sản. Kế đến trong cuộc chiến tranh, nhất là vào những năm 1972 và cao trào trong những tháng 3,4/1975 hầu như là có những biển sóng người Việt lên đường trốn chạy cộng sản. Đến sau 30 /4/1975, người ta những tưởng là người Việt Nam không còn đường để chạy. Kết quả, biển khởi lại là thối thoát cho vài triệu người. Họ ra đi trên những cái thuyền như cái mủng. Họ thách đố với biển khơi, thà chấp nhận cái chết hơn là ở lại với cộng sản. Tại sao lại như thế?

Kế đến, ai cũng biết, nếu như các nước Tự Do còn đón nhận thì người đi dù có bị chúng chém giết, ngăn cản, con số sẽ không phải là 3, 4 triệu người như sách báo tổng kết. Trái lại, sẽ gấp nhiều lần hơn thế. Tuy nhiên, ai cũng thấy là đoàn người ra đi kia sẽ chấm dứt ngay khi trên mảnh đất Việt Nam ấy không còn bóng dáng Việt cộng. Hơn thế, người đi lại bắt đầu trở về quê hương của mình. Bởi lẽ, người nhân bản Việt Nam không bao giờ muốn mất quê hương. Họ phải đi chỉ vì không chấp nhận cộng sản.

Chuyện của người Việt Nam bỏ nước ra đi là như thế. Tuy nhiên, gần đây những tên cộng sản tham ô, tồi bại, lại cũng tìm cách chạy trốn CS để sang các nước tự do, nơi có người Việt ty nạn sinh sống. Chẳng nghe nhà nước Việt cộng nói đến bất cứ một tên Việt cộng nào trốn thiên đường cộng sản Việt Nam để sang lánh nạn ở nước thiên đàng Trung Hoa hay Bắc Hàn hoặc Cuba. Ngoại trừ một Hoàng Văn Hoan! Trong khi đó, thân nhân hoặc con cái Việt cộng thì lại có hàng chục ngàn, hoặc hơn thế, tìm đủ mọi cách để “di cư” sang các nước Tự Do như Anh, Mỹ, Úc, Canada… Tại sao thế nhỉ? Cha mẹ chúng thờ Tàu, chúng lại theo Mỹ ư? Ngay trong nhà chúng đối chọi, lừa đảo nhau như thế thì làm sao có thể tử tế với người ngoài?

Bạn hỏi, tại sao người Việt Nam lại gặp cái tai ương khốn khổ này ư? Có hai lý do chính: Trước là có một số người ngu muội đi theo tuyên truyền dối trá của CS. Sau đó, tay đã nhúng chàm và bị chúng ràng buộc, không thể tự thoát ly nên buộc phải bảo vệ CS và tàn phá giá trị nhân bản của đồng loại.

Thực vậy, bất cứ ai có đôi chút học thức, ý thức nhân bản, người ta đều hiểu rằng Cộng sản và cái cơ chế cầm quyền của chúng có hai động lực. Một mặt là nó triệt tiêu sự sáng tạo, hiểu biết và tâm nhân bản của con người. Mặt khác, cái tham, cái ác, cái ngu xuẩn, đần độn của kẻ theo Hồ lại có cơ hội phát triển! Nghĩa là, trong cái cơ chế của cộng sản điều hành, không một kẻ nào có thể làm được điều đúng, tốt, nói chi đến hành thiện. Bởi vì, tất cả những hành động và tư tưởng của nó đều từ cái ác mà phát sinh. Đã thế, cái thẻ đảng còn trở thành nền móng làm quan, che chắn cho những kẻ bất lương hành ác. Từ đó, xã hội bị dìm xuống vực thẳm như nô lệ. Ở đó sẽ không còn lối thoát nào khác.

V. Tại sao người Việt Nam phải bỏ nước ra đi?

Câu trả lời xem ra là rất đơn giản và do chính dân miên bắc chỉ cho người miền nam biết là: “Một năm hai thước vải thô, làm sao che kín bác Hồ đây em?”. Sự kiện là thế. Trong thực tế, đứa trẻ lên năm ở miền nam đã trả lời chính xác cho câu hỏi này. Nhưng một thủ tướng của nhà nước CS Bắc Việt là Phạm văn Đồng, kẻ bán nước Việt có giấy tờ chứng minh, lại không biết được câu trả lời. Tệ hơn, Y còn để lại câu nói chứng minh cho sự vô học của bản thân khi nói về người tỵ nạn CS như: “bọn phản quốc, bọn theo chân đế quốc”.

Mà nào có phải chỉ có một mình Y! Trái lại, xem ra là cả cái tập thể ấy đều như những con giun đất. Dẫn đầu là Lê Duẩn với ngôn từ là "bọn ma cô, đĩ điếm". Rồi Trần Phương, Chủ nhiệm cái Ủy Ban Khoa học Xã hội đã ví von một cách tục tĩu, bất giáo với người dân miền Nam là “những con điếm cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ”. Riêng Nguyễn Trọng Nhân, bộ trưởng y tế, có cái tên rất người nhưng lòng còn hơn một con thú khi Y tuyên bố trong cuộc phỏng vấn ở Amsterdam vào năm 1993 là: “Những người di tản đáng bị chặt đầu”! Hỏi xem, con cái của chúng nay sao rồi? Sang Tàu, Bắc Hàn, Cuba hay lại chạy sang các nước tư bản để “ăn cơm thừa, canh cặn” của những người Việt tỵ nạn năm nao?

Khi viết về chuyện này, tôi không muốn mỉa mai bất cứ một ai đâu. Nhưng buộc phải viết để cho tập đoàn CS ấy đọc và vỡ cái ngu ra. Nhờ đó, có lẽ chính đời của họ sẽ hưởng được nhiều lợi ích hơn và cũng bớt làm hại đến đời sống của công chúng Việt Nam mà thôi. Hy vọng thế. Nhưng khéo chỉ như “nước đổ đầu vịt.” 

Vâng, bạn nói đúng đấy! Có thể chỉ như nước đổ đầu vịt thôi. Bởi những kẻ mãi quốc cầu vinh, không biết đọc lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta thì có nói nhiều cũng như không. Chúng đã tự coi mình không thuộc về giòng tộc Việt Nam là những người phải bảo vệ bờ cõi của cha ông để lại, nên chúng xin nâng khăn sửa túi, hầu hạ kẻ phương bắc. Đã thế, còn ra sức đàn áp dân mình để kiếm được miếng cơm manh áo hay lời khen tặng từ Tàu ô thì nhân phẩm Việt Nam làm gì còn có ở trong những kẻ theo Hồ Quang.

Đất nước Việt Nam hôm nay là như thế đó. Nếu không có cuộc cách mạng từ chính lòng người Việt Nam, đất nước này sẽ được tập đoàn cộng sản HCM từ từ dẫn vào lòng Trung cộng. Ở đó, người Việt Nam khác gì lũ nô lệ cho Tàu ngay trên quê hương mình?

Như thế, ai là người Việt Nam, còn nghĩ đến tiền đồ của tổ quốc, còn nghĩ đến công lao khó nhọc dựng nước và giữ nước của cha ông ta và còn muốn bảo tồn mảnh đất này cho con cháu mai sau thì xin hãy ngồi lại bên nhau. Xin bớt đi đôi ba lời nói nhưng thêm vào là những bàn tay. Để rồi, cùng nắm chặt lấy tay nhau, cùng đứng dậy, đạp đổ thành trì gian ác cũng như chế độ vô luân của cộng sản mà đi. Đi để đem lại Hoà Bình và Công Lý cho ngày mai. Đi để đem về Độc Lập và thạnh trị cho đất nước. Đi và đem về Tự Do no ấm cho đồng bào.

Hãy nhớ, trước mặt chúng ta là ngọn lửa thiêng của dân tộc vẫn bừng cháy để dẫn đường. Bạch đằng Giang, Đống Đa lả thành lũy của dân tộc còn đây thì những kẻ như Hồ chí Minh, Lê chiêu Thống và hôm nay là những Trọng, Ngân, Phúc, Quang… rước voi về dày mả tổ sẽ chẳng có chỗ dung thân trên phần đất này.

30-7-18

Từ giáo dục gian đến chính trị gian

Nhà giáo Miền Nam (Danlambao) - Đã từ lâu, tôi không muốn đả động tới cái nền “giáo dục phản giáo dục” của CS tại VN, vì nó thối nát không còn gì để nói, không còn biện pháp nào có thể cứu chữa, ngoại trừ phải phá bỏ, và còn phải tẩy trừ, rửa sạch tì vết của nó, để thay đổi bằng một nền giáo dục dựa trên sự chính trực, văn hóa và lương tâm, một nền giáo dục có nhân tâm, nhân nghĩa và nhân đạo, nó thuộc về con người chứ không thuộc về vô thần, quỷ ma, tà gian. Nhưng muốn có một nền giáo dục như thế, đòi buộc phải có một chính thể tự do, nhân quyền, tôn trọng nhân phẩm con người và có niềm tin, mà các tôn giáo chân chính phải góp phần. Chính niềm tin tôn giáo sẽ cầm cân nảy mực cho một xã hội công bằng, nhân ái và tín trung, chứ không thể là vô thần, vì con người vô linh hồn sẽ chỉ là con vật, là thú hoang tranh dành nhau sự sống, trong một xã hội rừng rú!

Sự việc gian điểm thi ở Sơn La, Hà Giang làm chấn động không những trong nước mà cả thế giới vì chưa nơi nào có, càng làm cho những người còn nhân bản, còn lương tri phải nghĩ đến việc sớm gạt bỏ chế độ CS vô thần ra khỏi đất nước VN. Tôi nhấn mạnh chữ VÔ THẦN, vì chính nó là căn nguyên của mọi xấu xa, mọi tội ác chống lại chân, thiện, mỹ và con người. Nếu không có nhân bản, đạo đức, thì mọi điều xấu xa ghê tởm đều có thể xảy ra, mà gian dối chỉ là một đặc tính. Một nền chính trị vô thần, gắn liền với một chế độ bất lương, làm sao có thể có một nền giáo dục tốt, nhân bản được?

Sự việc lùm xùm về “thi gian, điểm lận” vừa mới đây đã làm tôi chán ngán không còn muốn để tâm theo dõi, vì nó đã trở thành quá bình thường và tràn lan, là bản chất cố hữu của xã hội CS, nên tôi không muốn mất thì giờ đọc các bài báo, bài bình luận về nó. Duy có một tựa đề độc đáo trên báo BBC Việt ngữ: CHÍNH NGƯỜI LỚN DẠY CHÚNG CHÁU GIAN DỐI, của một tác giả có bút hiệu là “Cháu Việt Nam”, đã làm tôi chú tâm đọc nguyên bài, và nảy sinh nhiều suy nghĩ. Xin mọi người hãy tìm đọc trên báo BBC ngày 28/7/2018, hiện đang còn tồn tại đến hôm nay, để một lần nữa, chứ không phải lần đầu, thấu hiểu về một xã hội CSVN… hết thuốc chữa, không còn gì để nói, nó tanh bành từ chính trị, kinh tế, đạo đức và con người!

Tôi rất tâm đắc với câu nói: “Xin đừng nói: “nếu gian điểm thi như thế, sẽ tạo nên một xã hội gian dối sau này! Cái xã hội gian dối ấy đã tồn tại từ rất lâu ở VN (ý nói thời CS cai trị), mà xã hội của các cháu sau này chỉ thừa kế cái xã hội gian dối của các ông bà, cha mẹ, cô chú!”. Lại còn có thêm một câu biểu cảm của ai đó đăng trên báo: “Kinh khủng quá! Vụ này (gian điểm thi ở Hà Giang) mà không được phát hiện, thì đẻ ra cả một thế hệ lừa lọc gian dối còn gì!”. Tôi trộm nghĩ: thứ nhất, đó chỉ là câu nói lừa bịp gian xảo có hậu ý che đậy cho một xã hội CS VN hiện tại thối tha! Thứ nhì, nó là của một kẻ đang sống trên mây, chứ không sống ở dưới đất, trong lòng xã hội VN XHCN!

Hãy nhìn xem đi, xã hội hiện tại đang có nguyên một cái LÒ KHỔNG LỒ, mà Nguyễn Phú Trọng, đảng trưởng đảng CS VN đang đốt lên đùng đùng, quăng hàng ngàn khúc củi là những kẻ tội phạm tham nhũng, hối lộ, bè phái, cướp bóc của dân nước, tổ chức bài bạc, buôn lậu xuyên quốc gia. Mới nhất là hàng chục tướng công an, quân đội vừa bị thủ Trọng thảy vào lò vì tội tham nhũng, tất thảy đều là đảng viên CS, nằm trong tà quyền CS chứ không có ai là ngoài đảng. 

Đây mới chỉ là thanh trừng bè phái, chứ nếu công bằng diệt tham nhũng thì toàn thể đảng viên CS đang tham gia cầm quyền đều bị đốt hết, kể cả tên chủ lò Trọng lú! Vậy tham nhũng là gian hay là thật?

Hãy nhìn xem trong xã hội CS hiện giờ:

- Bộ chính trị là BỘ TOÀN LỪA, lừa cả thế giới, lừa đảo dân, cướp của nước, vay nợ quốc tế rồi lấy chia nhau bỏ túi riêng.

- Bộ quốc phòng thì là BỘ BÁN NƯỚC, lo kinh doanh bất hợp pháp để làm giàu, và cuối cùng là bán nước cho giặc Tàu.

- Bộ công an là BỘ TOÀN GIAN, với hàng trăm “cây củi” sống là các tướng tá CA, đã bị Nguyễn Phú Trọng cho vào lò, vì tổ chức bài bạc, hối lộ. Mỗi tên tướng tá có tài sản hàng trăm hàng nghìn tỷ đô la, ở đâu ra nếu không đi cướp của dân, buôn lậu xuyên quốc gia, mua quan bán tước, bè phái để cướp của công làm của tư? Còn chưa nói tới mọi tên CA giao thông đứng đường đều là những tên cướp cạn của dân. 

- Bộ y tế là BỘ BẤT NHÂN, chuyên nhập thuốc giả và bán cho bệnh nhân với giá cắt cổ, bệnh viện thì giết dân vô tội vạ.

- Bộ kinh tế, công thương là BỘ ĐẠI GIAN, ĐẠI ÁC, quy tụ những gian thương làm giàu trên xương máu của dân, phá tan đất nước bằng cách giết nông dân, bóc lột công nhân, buôn đồ lậu và độc hại của Tàu cung cấp cho dân để tiêu diệt dân theo lệnh của Tàu.

- Bộ tài nguyên-môi trường là BỘ TÀN PHÁ, chuyên tàn phá môi trường, hủy diệt sự sống của toàn dân, rước ma Tàu cộng về dày mả tổ! 

- Bộ giáo dục là BỘ HỦY DIỆT CON NGƯỜI, từ tên bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ là tên vô học, lại gian ngoan, đạo văn đạo chữ, và chủ trương giáo dục giới trẻ bằng sự gian dối, vô đạo, bất nhân, côn đồ, vô trách nhiệm, hay hục đầu vào ăn chơi sa đọa, đẩy hết nhân tài ra nước ngoài, còn lại toàn những thành phần bất tài vô đức, kém kiến thức, khiếm khuyết nhân cách, để cho CS dễ bề nắm đầu cai trị, và báo hiệu một xã hội tối tăm bất ổn trong tương lai!

Tóm lại mọi thứ “bộ” chỉ là tay chân của đảng CS, để bảo vệ và tạo điều kiện cho đảng hút máu dân lành và bán nước!

GIAN DỐI, NHŨNG LẠM là đặc trưng của CS, như Gorbachev cựu tổng bí thư CS Liên Xô từng than vãn: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý tưởng CS, hôm nay tôi đau lòng mà nói rằng: CS chỉ biết tuyên truyền và dối trá!”. Thật không có ai nói về “bệnh sida CS” chính xác bằng chính kẻ bị đã mắc căn bệnh đó!

Mới vừa ra Phú Quốc, tôi chợt nhận ra một sự “tham nhũng hàng dọc lẫn hàng ngang” của người CS: “Một người làm quan, cả họ ăn cướp”, còn tệ hơn gấp trăm lần chế độ phong kiến thời xưa! Đây cũng là “mô hình đặc trưng” của chế độ tham nhũng CS! Ở huyện đảo này người dân ai cũng biết gia đình bà con nội ngoại, họ xa họ gần của cựu thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng, đã chiếm hết những khu đất đẹp đẽ và đắc địa ở nơi đây, vì huyện đảo này thuộc tỉnh Kiên Giang, là vùng lãnh địa của tên ba Dũng. Chúng chiếm trước để sau bán lại mà hốt bạc, làm giàu trên sự tan tành của đất nước, vì nơi này sẽ là một trong 3 đặc khu, sẽ thuộc về Tàu trong tương lại, nếu người dân không kịp lấy lại chủ quyền đất nước khỏi tay CS. Lúc đó Tàu sẽ in vô số tiền giả để đổi lấy lãnh thổ VN, vì chúng đang nắm đầu VC và đang in tiền cho VC, thì bao nhiêu mà chúng chẳng có, giá nào mà chúng chẳng mua?! Đấm mõm cho dân có đất một ít tiền giả để lấy đất thật, chính là mưu trò mị dân để nuốt trôi lãnh thổ VN, chứ thực ra bọn đầu não CS VN đã bán xong, nhận số tiền tới 74 tỷ Mỹ kim, và bọn này đã chia nhau bỏ túi từ lâu rồi! Nay chúng giao đất rồi cuốn gói bỏ chạy, để lại dân VN cho Tàu vào thống trị, như các “đặc khu” mà Tàu đã mua của các nước nghèo lạc hậu trên thế giới, trong đó có Campuchia, Lào, mà các tên độc tài cai trị đã bán cho Tàu giống như bọn CS VN, và người dân bản xứ các nước đó đang rên siết khi quân Tàu tràn vào làm chủ những vùng đất này! 

Bọn cầm quyền CS gồm toàn những tên vô học, vô đạo và gian ác. Đặc biệt nếu có dịp gần bọn này, chúng ta sẽ thấy chúng đều đã học hỏi và khoác vào một bộ mặt đạo đức giả, chúng nói những điều nhân nghĩa rất trơn tru, thậm chí còn dạy nhân nghĩa cho những người kém hiểu biết về chúng, để bịp dân, khiến nhiều người dễ nhận định lầm chúng là những con người có tâm đạo, nhưng khi làm thì toàn chuyện bất nhân ác đức! Thượng bất chính, hạ tắc loạn là lẽ đương nhiên, lãnh đạo, quan quyền gian tham làm sao dân không gian dối , lừa lọc? Chữ công minh, chính trực, nhân nghĩa… có từ ngàn xưa của dân ta, nay đã biến mất khỏi xã hội CS. Từ quan đến dân đều sống trong lừa lọc, thủ lợi, giệt đối phương, lừa bịp để kiếm tiền, rồi dùng tiền mà mua quyền, mua địa vị, tạo thành MỘT XÃ HỘI GIAN GIẢ VÀ BẤT NHÂN! Từ chủ tịch nước đến tên xe ôm, người buôn thúng bán bưng, hầu hết đều dựa trên sự lọc lừa mà sống. 

Sự gian xảo, cướp bóc, tham nhũng… đâu phải mới đây, mà nó đã tiềm tàng lưu cữu từ lâu đời, nay gốc đã ăn sâu, rễ đã đan dầy trong mảnh đất VN, đến độ làm cho xã hội tàn mạt không còn thể cứu chữa! Một xã hội mà kẻ tham gia vào hàng ngũ lãnh đạo toàn sài bằng giả, gồm toàn một lũ dòi bọ đục khoét tan tành đất nước, chính quyền thì dùng côn đồ trị, cùng với một nền giáo dục sa đọa, mà hiệu trưởng đã biến nhà trường thành một ổ điếm, biến học sinh của mình thành gái bán dâm như tên Sầm Đức Sương ở trường cấp 3 Việt Lâm tại Hà Giang, nay gọi là Hà Gian! Điểm thi thì giả, thày thì gian, trò thì vô giáo dục, thế hệ cha ông đã gian dối quá như thế, mà còn phải chờ đợi gì đến một xã hội con cháu mới gian dối? Câu nói của ai đó: “Kinh khủng quá! Vụ này mà không được phát hiện, thì đẻ ra cả một thế hệ lừa lọc gian dối còn gì!”, chỉ là một câu nói lươn lẹo, bao che cho một thực trạng thối nát đang hiện hữu, và hiện hữu đã từ rất lâu, từ khi CS thống trị đất nước ta.

Cũng cần biết: không phải chỉ có CS VN mới gian ác vô nhân tính, mà những đặc tính đó là của chung các chế độ và con người CS trên toàn thế giới. Điển hình như Stalin đã làm một cuộc thảm sát gần như toàn dân tộc Ukraina khoảng 10 triệu người vào năm 1942, Mao Trạch Đông giết khoảng 40 triệu dân Trung Hoa năm 1958, bằng cách cố tình tạo nên một nạn đói, Hồ Chí Minh theo lệnh của Mao làm cuộc thảm sát mang tên “cải cách ruộng đất”, giết gần 300 ngàn người VN những năm 1955, 1956, và đảng CSVN đã giết hàng nhiều triệu người, từ cắt cổ buông sông, chôn sống cho đến tra tấn trong ngục tù. Giết dân đã là truyền thống của CS không còn thể chối cãi. Hàng năm thế giới đều có tổ chức ngày tưởng niệm các nạn nhân CS, và coi CS là kẻ thù giệt chủng của nhân loại!

Một xã hội hình thành trên nền tảng gian tà, bất chính, vô đạo, dã man, chỉ trọng vật chất mà chà đạp con người, nếu tồn tại thêm thì dân VN sẽ tàn, nước VN sẽ mạt, chưa kể là bị mất nước về tay giặc Tàu, chứ đừng mơ tưởng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, văn minh hay một nền giáo dục chân chính! Nền giáo dục “vô giáo dục” ngày hôm nay thuộc về bản chất, là hệ quả tất yếu của chủ thuyết CS bất lương. Nếu muốn cứu nước thoát khỏi ách ngoại xâm, và dân tộc không trở thành đắm mê trong vô đạo, bất nhân, bất nghĩa; nếu muốn phục hồi lại quê hương và dân tộc trong đạo lý, luân thường, chỉ có một phương cách duy nhất: PHẾ BỎ ĐẢNG CS, thành lập một chính thể tự do, dân chủ, nhân quyền, áp dụng một nền giáo dục đầy nhân bản và chính trực. Nền giáo dục đó sẽ đào tạo tô bồi cho mọi con người và giới trẻ một căn bản đạo đức, nhân nghĩa, tín trung, liêm chính và đầy tình người, trước khi truyền đạt kiến thức phổ thông và chuyên môn cho họ, với mục đích tạo cho họ thành nhân trước khi thành công, như thời VNCH trước 1975. Trong chương trình giáo dục đó phải có môn ĐỨC DỤC để dạy đạo đức, rèn luyện nhân cách, và môn CÔNG DÂN GIÁO DỤC để vun trồng lòng yêu nước thương đồng bào, tinh thần dấn thân xây dựng đất nước, phục vụ tha nhân, sẽ đồng hành cùng với những môn khoa học, kiến thức chuyên môn, để tạo nên con người toàn diện, như thời trước 1975 ở miền Nam. Một nền giáo dục viên mãn như vậy sẽ tạo nên những rường cột quốc gia lành mạnh, toàn đức toàn tài để phục vụ quốc gia, xã hội, và xây dựng đất nước tiến bộ trong nhân bản và đạo đức.

Muốn thế, những kẻ mê lầm theo tà thuyết vô thần bất nhân, hãy từ bỏ con đường cũ đưa đến sự hủy diệt, để cùng toàn dân chung tay cứu nước, xóa bỏ vô thần CS, lập một nền chính trị hữu thần, tôn trọng dân chủ và nhân quyền, thì mới mong cứu dân tộc trong đó có mình và con cháu mình khỏi nạn diệt vong!

Cầu mong cho quê hương thân yêu VN sớm thoát Cộng để thoát Tàu, và tiến đến vinh quang rạng ngời. Ngày ấy sẽ không xa, nếu toàn dân đồng lòng đứng lên đánh đuổi thù trong lẫn giặc ngoài, để cứu nguy Tổ Quốc và dân tộc.

30.07.2018

Biểu tình: Quyền và luật

Phạm Văn (Danlambao) - Hiện vẫn đang diễn ra những cuộc tranh biện về quyền và luật biểu tình. Người thì nêu vấn đề người dân có được quyền biểu tình hay không khi chưa có luật biểu tình “cụ thể” cho dù quyền biểu tình đã được hiến định (tại điều 25 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam). Người khác cho rằng phải có luật biểu tình thì biểu tình mới có thể được tiến hành thuận lợi, an toàn. Có người đòi Quốc hội nên bổ sung, sửa chữa điều này điều kia thuộc nội dung luật biểu tình. Cũng có người lớn tiếng rằng có những người đứng đầu nhà nước vi hiến, phạm pháp trong một số trường hợp nào đó. Còn có cả chuyện người dân đi biểu tình dựa vào quyền biểu tình đã được “hiến định” để đòi nhà cầm quyền phải “tôn trọng” luật pháp. Đành rằng ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác nhà cầm quyền đã làm “đúng luật”, nhưng đó quyết không phải là những gì thuộc bản chất của nền luật pháp hiện hành.

Tôi nhận thấy tính chất không lối thoát của những cuộc tranh biện và những việc làm này căn bản ở chỗ, người ta đã xuất phát từ việc thừa nhận một cách tự nhiên, có cả sự ngây thơ hệ thống luật pháp hiện hành, đã tự đặt mình, tự giới hạn-trói mình trong khuôn khổ của hệ thống luật pháp và cả trong thể chế nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Như thế, chẳng khác nào người ta đang đứng trong một chiếc thuyền bị mắc cạn, rồi cùng nhau hô hào “đẩy” thuyền đi. Thật là tức cười! Đương nhiên, đấy là tôi chủ yếu nói về những người còn ít nhiều có tinh thần trách nhiệm và sự vô tư trong cuộc tranh biện, biểu tình-đấu tranh, còn ngược lại, đối với những người giải thích quyền và luật biểu tình theo hướng nhằm bảo vệ chế độ này thì khỏi cần phải nói. Vậy, liệu có phải lối thoát cho những cuộc tranh biện, hành động biểu tình như đã nói là ra khỏi cái thuyền đã mắc cạn để tiếp tục đẩy nó đi? 

1. Quyền đương nhiên, quyền không đương nhiên và quyền pháp lý 

Ý định viết bài này nảy sinh sau khi nghe livestream “Biểu tình và luật biểu tình” của BBC tiếng Việt được thực hiện sau cuộc biểu tình-xuống đường của nhân dân trong tháng 6 vừa qua. Nhưng vấn đề tôi trăn trở lâu nay trong nghiên cứu luật pháp là khái niệm quyền. Ở đây việc nắm được nội dung khái niệm này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của khái niệm quyền biểu tình và những khía cạnh nội dung khác. Tôi hiểu tâm trạng của một số bạn đọc nói rằng trong tình hình cấp bách hiện nay, không nên trình bày những gì mang tính lý thuyết xa xôi. Thiết nghĩ, cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một chế độ mới Tự do-Dân chủ hẳn sẽ còn lâu dài ngay cả khi chế độ hiện thời đã bị xóa bỏ, vì thế việc nâng cao dân trí cần phải thường xuyên, mà cái căn bản là ở chỗ phải coi trọng những tri thức nền tảng, điều mà người dân Việt Nam nói chung hiện vẫn còn rất thiếu. Hãy hình dung giản đơn như việc trồng một cây cột, càng cắm sâu xuống đất nó càng chắc chắn, xây một ngôi nhà nhiều tầng, nền móng phải được làm thật vững chắc. 

Khái niệm quyền là một khái niệm không dễ để hiểu cả về phương diện luật học và triết học. Trong cuốn “Khế ước xã hội” nổi tiếng của mình J.J. Rousseau cho rằng từ ngữ, khái niệm “quyền” khi đứng một mình chẳng có nghĩa gì cả. Còn trong cuốn Từ điển luật học (do Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội biên soạn 1999) “quyền” được hiểu là “những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế”. Theo đó, người ta phân chia thành các loại loại quyền khác nhau, về cơ bản nó có nghĩa là nếu tuân theo luật lệ, quy tắc nào đó thì người ta có quyền này hay khác. Tôi nhận thấy sự giải thích về “quyền” ở đây chưa thật rõ về bản chất, chủ yếu mang ý nghĩa hình thức. Bởi vì, về bản chất trước hết quyền không phải là việc người ta được phép làm việc này hay kia căn cứ vào luật pháp hay vào những quy tắc nói chung, không phải ở chỗ “không bị ai ngăn chặn, hạn chế”, trái lại, nếu đã có quyền làm một việc nào đó, thì dù có ai ngăn chặn, hạn chế, người ta vẫn làm. 

Tôi hiểu rằng có hai loại quyền cơ bản: thứ nhất là “quyền đương nhiên” hay “quyền trước luật”, “quyền dưới luật”, viết gọn là “quyền trước-dưới luật”, cũng có thể gọi đây là “quyền thực tế”; thứ hai là “quyền với luật”, “quyền trong luật”, viết gọn là “quyền với-trong luật” hay cũng có thể gọi là “quyền không đương nhiên”. Từ “luật” ở đây không chỉ có nghĩa là “luật pháp”, mà trước hết được hiểu theo nghĩa rộng, nó chỉ các quy tắc, quy định nói chung, trong đó có thể bao gồm cả những quy tắc đạo đức. Sách Từ điển luật học nói trên cho rằng quyền đương nhiên bao gồm các quyền như quyền làm người, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng trong thực tế những quyền này bao gồm cả hai loại quyền cơ bản nói trên. Thí dụ, quyền được tự do (nên viết là “quyền tự do”) có thể bao gồm cả quyền đương nhiên, quyền không đương nhiên, với nghĩa là quyền không đương nhiên, quyền tự do lại bao gồm quyền tự do không hoặc chưa có tính pháp lý và quyền tự do pháp lý. Do đó, cần phải làm sáng rõ các khái niệm quyền, quyền đương nhiên và không đương nhiên.

Có thể thấy quyền đã tồn tại ở các loài động vật, thậm chí trong thế giới sinh vật nói chung. Một cái cây mọc lên, một bông hoa nở ra đều có không gian sinh tồn của riêng nó. Hoặc rõ hơn, người ta thấy những con báo, con hổ, hay sư tử chỉ làm cái việc “đánh dấu lãnh thổ” (bằng nước đái) sau khi chúng đã chứng tỏ được cái khả năng giết được những con mồi (con nai, con bò rừng…) tại một khu vực nào đó. Theo đó, cái “quyền” kiểm soát lãnh thổ dựa trên việc đánh dấu bằng nước đái, có thể hiểu là việc đặt ra những “ranh giới” hay “quy tắc”, chỉ có sau khi những năng lực (thể lực và trí lực) và điều kiện (thời tiết, đường chạy, con mồi lớn hoặc nhỏ v.v..) cho phép chúng giết được con mồi, đã được khẳng định. Như vậy, quyền trước hết là cái khả năng, năng lực và những điều kiện cho phép con vật có thể thực hiện những hành vi nhằm đạt được mục tiêu nào đó hay hành vi sinh tồn nói chung của chúng. Nghĩa là con vật “có quyền”, hay cái “cho phép” nó thực hiện hành vi sinh tồn trước hết không phải là việc dựa vào những “quy tắc” hay “ranh giới”, tức là có tính hình thức. Vì, đối với một con sư tử đã quá già hoặc ốm yếu thì việc đái ra để “đánh dấu lãnh thổ” chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Thí dụ vừa nêu còn cho thấy có sự tồn tại của cả hai loại quyền là đương nhiên và không đương nhiên. Trong thế giới động vật, sinh vật quyền mang tính chất thuần túy tự nhiên, bản năng.

Trong thế giời loài người một người không thể được phép-có quyền đối với việc giết một con thú hoặc canh tác trên một mảnh đất, nếu anh ta không có năng lực và những điều kiện cần thiết. Điều này được thể hiện trong các hành vi từ đơn giản như ăn, ở, mặc, đi lại cho đến các sinh hoạt phức tạp hơn. Nhưng đối với con người, ngoài quyền tự nhiên như ở loài vật, nó còn có những “quyền xã hội” rộng lớn hơn, cao hơn. Ở đây, trước hết con người cũng có các quyền đương nhiên, các quyền trước-dưới luật hay quyền thực tế. Đấy là việc con người đã và đang không ngừng khẳng định những quyền-sự được phép của mình đối với những đối tượng tự nhiên khi biến chúng thành những sản phẩm như các công cụ, lương thực, thực phẩm và những phương tiện khác. Nhưng quyền đương nhiên của con người cũng tồn tại cả trong các hoạt động với những đối tượng xã hội, cụ thể là sự hình thành sở hữu tư nhân và sự xâm chiếm, đồng hóa của dân này đối với các dân khác. 

Sự hình thành sở hữu tư nhân và chế độ sở hữu tư nhân trước hết và căn bản dựa trên năng lực và những điều kiện lao động cần thiết, đồng thời do sự thiếu năng lực, thiếu các điều kiện và sự thất bại của những người khác đã biến họ thành kẻ làm thuê, chứ không phải dựa trên chiếm đoạt, bóc lột người khác. Hoặc việc đất đai, lãnh thổ, dân số của nhiều quốc gia đã tăng lên, thậm chí rất nhiều bởi những cuộc xâm chiếm và sự đồng hóa dân các nước khác. Rất cần nhấn mạnh rằng quyền sở hữu (sở hữu tư nhân) trước hết là quyền đương nhiên, quyền trước-dưới luật hay quyền thực tế. Đây là thứ quyền mà các nhà tư tưởng thế kỷ XVII-XVIII gọi là quyền “thiêng liêng bất khả xâm phạm”. Nhưng đáng nói là sau đó nó đã bị một “chủ thuyết” cho rằng đó là cái do “sự tước đoạt” mà có, cho nên cần phải tiến hành “tước đoạt” kẻ “đã tước đoạt”, để rồi “oan uổng” thay, chính cái “tước đoạt được” ấy lại rơi vào tay những kẻ “tổ chức” việc đi tước đoạt.

Còn thấy, trong cả hai trường hợp nói trên, chỉ sau khi trở thành kẻ sở hữu, chiếm được các lãnh thổ và thực hiện sự đồng hóa, thì những quy tắc, luật lệ mới được đề xuất, ban bố, mà phần lớn là của kẻ sở hữu và kẻ đã thành công trong việc xâm chiếm, đồng hóa các dân khác, nhằm bảo vệ quyền lợi của kẻ sở hữu và kẻ xâm chiếm trước những người làm thuê và nước bị chiếm hoặc trước những người sở hữu khác. Những quy tắc, luật lệ này có thể chưa phải là luật pháp theo nghĩa được ban bố bởi một thể chế nhà nước. Như vậy, trong những quyền xã hội quyền đương nhiên, quyền trước-dưới luật hay quyền thực tế tồn tại trước khi có quyền không đương nhiên hay quyền với-trong luật (là những quyền dựa trên việc người ta đề ra các quy tắc, luật lệ giữa họ với nhau). Với cả hai loại quyền ấy con người trở thành chủ thể (người chủ) của hoạt động của mình. Vậy, không được quên điều này: các quyền không đương nhiên, quyền với-trong luật chỉ có ý nghĩa thực sự khi người ta đã có được các quyền đương nhiên, quyền trước-dưới luật hay quyền thực tế của mình. Không có, chưa có các quyền này thì các quyền với-trong luật chỉ là hình thức, chỉ là sự áp đặt, thậm chí là lừa bịp. 

Về quyền pháp lý, tôi cũng đã nói về điều này trong bài “Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của cuộc đấu tranh của chúng ta” đã được đăng trên Dân Làm Báo ngày 1 tháng 7 năm 2018 khi nói đến quyền tự do pháp lý. Còn ở đây tôi nói về quyền pháp lý nói chung, liên quan đến rất nhiều quyền, trong đó quyền tự do chỉ là một. Quyền pháp lý cũng được xem là quyền với-trong luật hay quyền không đương nhiên, nhưng đây là những quyền được luật pháp quy định. Cũng cần nói rõ: quyền pháp lý chỉ có nội dung và ý nghĩa thực sự khi nói chung con người đã thực hiện những quyền đương nhiên, trước-dưới luật, quyền thực tế của mình. Do đó, quyền pháp lý chỉ là hình thức, trống rỗng, thậm chí là giả tạo, nếu như chúng dựa trên những điều luật, hệ thống luật pháp hoàn toàn hoặc về cơ bản mang tính chất áp đặt chủ quan bởi một tập đoàn xã hội nào đó, nhất là những tập đoàn đại diện cho những lợi ích, giá trị đã lỗi thời, cho dù chúng được ban bố bởi một thể chế nhà nước. 

Song, còn một vấn đề quan trọng là về tính chính đáng và không chính đáng của những quyền nói trên. Nếu không có sự phân biệt này thì xã hội sẽ rơi vào hỗn loạn, vì bất cứ ai cũng có thể dựa vào năng lực, sức mạnh để thiết lập các quyền của mình một cách tùy tiện, bất chấp tất cả. Tính chất chính đáng hoặc không chính đáng đều có thể tồn tại ở các loại, các hình thức quyền, kể cả quyền pháp lý. Nhưng ta nhấn mạnh tính chất chính đáng và không chính đáng của các quyền đương nhiên. Ta hiểu quyền chính đáng là những quyền mà con người thực hiện nó một cách tự do, và ngược lại quyền không chính đáng được thực hiện một cách không tự do. Nếu như tôi phải làm một việc và nó là chính đáng khi tôi tự do làm, biết mình đã làm việc đó một cách tự do, ngược lại, nếu tôi làm một việc không tự do, như để thỏa mãn lòng tham quá đáng, bằng những thủ đoạn lừa đảo, ăn cướp, hoặc bị ma lực nào đó xui khiến, hoặc trong những điều kiện lịch sử không còn cho phép nữa, như việc dùng sức mạnh dưới hình thức nào đó để xâm chiếm một nước có chủ quyền như hiện nay chẳng hạn, thì những việc làm ấy là không chính đáng. 

2. Luật biểu tình, quyền biểu tình pháp lý và biểu tình mới

Cần khẳng định rõ rằng về nguyên tắc, luật biểu tình không thể có trong chế độ độc tài-toàn trị, chế độ đảng “cộng sản” trị, nói rộng ra là chế độ ‘cộng sản” trị. Với bản chất quân chủ đã rất lỗi thời, quái dị, coi dân như vật sở hữu của nó, với mục đích là địa vị và quyền lợi của kẻ cầm quyền, còn bộ máy quyền lực và nhân dân chỉ là công cụ cho chúng thực hiện những mục đích ấy, chế độ này luôn gây ra những nỗi oan khiên, bất công, bất bình của người dân. Cho nên, việc ban bố luật biểu tình trong chế độ này sẽ hoàn toàn đi ngược lại với bản chất của nó, chẳng khác nào tạo ra điều kiện, cơ hội không thể tốt hơn cho nhân dân cất lên tiếng nói, phơi bày sự dối trá, tội ác vốn là những cái tồn tại đầy rẫy, tiềm tàng trong chế độ này. Vì thế, “quyền biểu tình” đã được hiến định (tại điều 25 Hiến pháp) thực ra chỉ là thứ quyền hình thức, giả tạo, ra vẻ đây là luật pháp của một nền dân chủ “đích thực”. Do đó, câu nói: “Quốc hội còn nợ dân luật biểu tình”, chỉ nhằm đánh lừa nhân dân, còn trong đầu kẻ nói ra câu nói ấy còn một câu nói hoàn toàn khác: “Chế độ này là của tao, không đời nào tao lại cho chúng mày cái quyền để chống lại tao. Chúng mày đừng có mơ!”. Đây mới là câu nói thực sự của chế độ, của những kẻ đứng đầu chế độ này. Nói rộng ra, nói chung hệ thống luật pháp hiện thời ở Việt Nam là do đảng “cộng sản” lập ra để bảo vệ đảng, thực hiện sự cai trị của nó đối với nhân dân và toàn xã hội nhằm thực hiện những mục đích xấu xa của chúng. 

Cho nên, chỉ khi nào thiết lập được nền Dân chủ của mình, nhân dân mới có thể tự do xây dựng, ban bố hệ thống luật pháp của mình, trong đó có luật biểu tình. Nhân dân có thể tiếp thu hệ thống luật pháp của chế độ cũ về những mặt, những khía cạnh nội dung nào đó, nhưng về cơ bản phải “thay máu” hệ thống này, phải loại bỏ hoàn toàn tính bất minh, dối trá, tùy tiện của nó, nhất là tính chất phi luân, vô đạo của nó, phải lột bỏ hoàn toàn tính chất-bản chất độc tài “cộng sản” của nó. Nhân dân sẽ làm cho hệ thống luật pháp mới thấm đẫm tinh thần nhân dân, thực sự là nền luật pháp của tự do, của những quyền con người, của quyền làm người và thực sự có tính khả thi và hiệu lực. Với hệ thống luật pháp này các quyền pháp lý của người dân cũng được xác lập, trong đó có quyền biểu tình pháp lý. Trong nhà nước của mình nhân dân sẽ thực hiện các quyền dựa vào luật pháp của mình mà không cần phải ai cho phép và ở đây sẽ không có chỗ cho cái điều hết sức vô lý tồn tại là Quốc hội của nhân dân lại “nợ dân” luật biểu tình hay bất cứ quyền, luật nào khác. 

Hãy nhớ rằng chính nhân dân, đại bộ phận nhân dân mới là những người đầu tiên làm ra hệ thống luật pháp của mình. Họ làm ra nó một cách hiện thực-thực tiễn, trước hết trong hiện thực-thực tiễn bằng việc khẳng định các quyền của mình trong lao động, đấu tranh, trong cuộc sống nói chung. Tuy nhiên, nhân dân còn một bộ phận khác, rất quan trọng của mình, đó là những trí thức, đặc biệt là các nhà làm luật. Đây là những người trước hết giúp cho đại đa số nhân dân nhận thức, ý thức được đầy đủ hơn những quyền của họ, những việc họ đã và đang làm, để giúp cho cuộc biểu tình-đấu tranh của nhân dân trở nên tự giác, có tổ chức. Tiếp đó họ sẽ là những người xây dựng hệ thống luật pháp của nhân dân về mặt lý thuyết bao gồm các điều luật, đặc biệt là những điều luật cơ bản, tức Hiến pháp, mà nhờ đó, các quyền của nhân dân có được tính pháp lý, nhờ đó nhân dân sẽ được sống trong nhà nước Dân chủ - Nhà nước pháp trị thực sự. 

Nhưng nhân dân chỉ có thể ban bố luật biểu tình và toàn bộ hệ thống luật pháp mới, và do đó chỉ có các quyền pháp lý bao gồm cả quyền biểu tình của mình sau khi đã xóa bỏ chế độ “cộng sản” trị để thiết lập chế độ Tự do-Dân chủ thông qua một cuộc biểu tình mới. Đó là cuộc biểu tình-đấu tranh nhằm mục tiêu rất rõ ràng trực tiếp là chống lại, lật nhào và xóa bỏ hoàn toàn chế độ đảng “cộng sản” trị đã quá lỗi thời, tàn ác, đã và đang thực hiện âm mưu bán nước, đồng thời nhằm chặn đứng và đẩy lùi âm mưu xâm chiếm-đồng hóa tiêu diệt giống nòi Việt Nam của Tàu Cộng, để thiết lập Chế độ Tự do-Dân chủ. Đây là cuộc biểu dương lực lượng của toàn thể nhân dân, của tất cả già trẻ, gái trai, sinh viên, học sinh, nông dân, công nhân, trí thức, tôn giáo và không tôn giáo ở khắp các tỉnh thành, nông thôn và thành thị, trên khắp ba miền Nam-Trung-Bắc, trong và ngoài nước. Cuộc biểu tình-đấu tranh này sẽ kết hợp chặt chẽ với những hình thức đấu tranh khác và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ tích cực của loài người tiến bộ. 

Cuộc biểu tình mới này chắc chắn sẽ xảy ra, như nó đã từng xảy ra ở những nước như Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Anbani, Cộng hòa Dân chủ Đức, Nga v.v.. Nhưng nếu còn có sự may mắn là chế độ tà quyền tự chuyển hóa hòa bình để chuyển giao quyền lực cho nhân dân, thì cuộc biểu tình mới này về hình thức sẽ không xảy ra, nhưng chính sức ép mạnh mẽ tiềm tàng của nó dẫn đến điều này. Liệu có “điều thực sự quý giá” này không? Câu trả lời là ở sự thức tỉnh chút lương tâm còn thoi thóp của những kẻ cầm quyền, đặc biệt nó nằm sâu trong truyền thống nhân đạo-nhân văn của con người Việt Nam. Còn nếu như không thể có điều ấy, thì với sức mạnh của đông đảo nhân dân sẽ như một con sóng thần to lớn, mạnh mẽ cuốn theo nó tất cả, kể cả những người chưa thức tỉnh, những lực lượng từng là bạo quyền, chế độ tà quyền cộng sản nhất định sẽ bị đè bẹp, chúng sẽ không có nơi chạy trốn, sẽ bị nhân dân trừng trị đích đáng và xóa bỏ không thương tiếc. Và cuộc biểu tình-nổi dậy ấy chính là thực hiện quyền biểu tình đương nhiên của nhân dân.

3. Quyền biểu tình đương nhiên - vượt qua sự sợ hãi

Như đã nói, con người ta ngoài cái thân xác-cơ thể sống trần trụi, ngoài cái con người cá nhân hẹp hòi là bản thân, gia đình, người thân ra, còn có những đặc trưng, giá trị cao quý hơn là trí tuệ, tính chủ thể (độc lập), tự do, đạo đức, ý chí và khát vọng làm người, còn có mặt khác là xã hội, tinh thần rộng lớn. Đây là những đặc trưng, giá trị rất CON NGƯỜI của con người và chúng chỉ có thể có được khi con người thực hiện được các quyền xã hội cơ bản là quyền sống, quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc, nhất là quyền tự do. Chỉ có được những quyền ấy con người, người dân mới có thể sống như một CON NGƯỜI, xứng đáng với KIẾP NGƯỜI của mình. 

Tôi đã xem và nghe nhiều livestream về bài hát Trả lại cho Dân của nhạc sĩ Việt Khang, do các ca sĩ, các thanh thiếu niên, sinh viên, học sinh, cả những cháu bé còn rất ít tuổi, các dàn đồng ca, hợp xướng ngoài nước và trong nước thể hiện, đặc biệt là sự thể hiện rất hồn nhiên, trong sáng và đầy nhiệt huyết của các em thiếu niên, học sinh ở Phú Yên. Tôi hết sức xúc động, và đã viết một số đoạn bình luận, trong đó có đoạn khi nghe các em học sinh cùng thầy giáo của mình hát trong một lớp học ở Phú Yên như sau: “Đây chính là nguyên nhân căn bản, sâu xa, của cuộc nổi dậy của nhân dân Bình Thuận-Phan rí trong tháng 6 vừa qua”. Cho nên, âm nhạc là gì, nếu như sự lay động, lôi cuốn mãnh liệt của nó đối với hàng triệu con tim, có thể thôi thúc hàng ngàn, hàng vạn người biểu tình-xuống đường, không bắt nguồn từ sự khao khát-thức tỉnh mãnh liệt quyền làm người, quyền tự do của nhân dân, đã làm rung động thực sự và rất dữ dội tâm hồn nhạc sĩ!? Nói thêm rằng việc thầy giáo cùng các em hát bài Trả lại cho Dân là một trong những dấu son báo hiệu một nền giáo dục tiến bộ trong tương lai đang rất gần của đất nước.

Qua những tiếng kêu đòi của các tầng lớp nhân dân vang lên được thể hiện trong bài hát, chúng ta thấy rõ thêm rằng ở Việt Nam hiện có rất nhiều quyền đương nhiên, quyền trước-dưới luật hay quyền thực tế cơ bản của con người, của nhân dân đã bị tước đoạt, trong đó đặc biệt là những quyền được sống, quyền làm người, quyền tự do và cả quyền biểu tình. Chắc chắn, đây không đơn giản là vấn đề non yếu về hiểu biết, ý thức luật pháp của người dân, người làm luật và cả của kẻ cầm quyền, mà chính là ở chỗ những kẻ cầm quyền đã lợi dụng, lạm dụng, thậm chí tuyệt đối quyền hạn của chúng, vì quyền hành ở trong tay bọn chúng, để tước đoạt các quyền đương nhiên như đã nói. Tuy vậy, nhân dân cần hiểu, cần ý thức rõ hơn nữa về những quyền, nhất là những quyền đương nhiên của mình. Bởi vì, giờ đây vấn đề không phải là việc đòi kẻ cầm quyền “trả lại” những quyền ấy, nhân dân và những người làm luật có trách nhiệm với nhân dân không nên tiếp tục nhầm lẫn khi cố “đòi cho được” cái quyền biểu tình chưa, không bao giờ là của mình. 

Chắc chắn rằng sau cuộc biểu tình-đấu tranh vừa qua, nhân dân càng hiểu rõ hơn những điều rất quan trọng trên đây. Vì vậy, vấn đề đối với nhân dân lúc này chỉ còn là phải tự mình đứng lên giành lấy, thực hiện trước hết các quyền đương nhiên, những quyền trước-dưới luật, trong đó đặc biệt là quyền biểu tình. Thực hiện quyền biểu tình đương nhiên lúc này có nghĩa là nhân dân chưa cần đến một hệ thống luật pháp nào cả, không cần ai cho phép, cũng chẳng ai có quyền ngăn cản, hạn chế chúng, nếu có kẻ ngăn chặn, hạn chế thì đó chỉ có thể là tà quyền.

Nhận thức, ý thức ra và đứng thẳng lên giành lấy, thực hiện những quyền đương nhiên, trước hết là quyền biểu tình lúc này, chính là nhân dân đã vượt qua, tiếp tục vượt qua những nỗi sợ hãi vẫn còn ẩn tàng đâu đó trong mỗi con người, trong các bộ phận nhân dân. Vượt qua sự sợ hãi nghĩa là nhân dân biết rõ những việc mình cần phải làm, nhất định phải làm, không thể trì hoãn. Điều đó cũng có nghĩa là nhân dân đã thấy ra được trong con người mình còn có cả đồng bào, anh em, quê hương, Tổ Quốc, giống nòi yêu quý, thân thương của mình, còn thấy cả nhân loại đau khổ và tiến bộ, cả dòng máu của họ cùng chảy trong huyết quản của mình. Vậy là nhân dân đã vượt lên trên cái con người cá nhân chật hẹp của mình và trở nên có sức mạnh lớn lao. 

Nhân dân sẽ càng trở nên can đảm và có sức mạnh lớn lao hơn vì biết rõ, chỉ có xóa bỏ chế độ đảng “cộng sản” trị, nhân dân mới có thể thiết lập chế độ Tự do-Dân chủ, mới có thể ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu xâm chiếm-đồng hóa Việt Nam của Tàu Cộng, mới có thể thực hiện những quyền con người, quyền làm người, quyền công dân một cách đầy đủ, trọn vẹn, bao gồm hệ thống các quyền đương nhiên và không đương nhiên của mình. Nhân dân can đảm và có sức mạnh là vì thần tượng Hồ Chí Minh đã và đang sụp đổ trong lòng nhân dân, là vì nhân dân tiến hành cuộc biểu tình-đấu tranh hoàn toàn tự do và chính đáng. Còn kẻ thù của nhân dân không có tự do. Chúng dựng lên và duy trì chế độ dối trá, tham lam và rất lỗi thời, dùng bạo lực chống lại nhân dân vì những quyền lợi của chúng. Chúng nô lệ cho lòng tham, cho quyền lực, cho những giá trị kinh tế-vật chất trần trụi, nô lệ cho ý chí xâm lược của Tàu Cộng, cho nên chúng không có những quyền chính đáng.

Nhân dân không còn sợ hãi, càng can đảm và trở nên có sức mạnh hơn, còn vì dã tâm xâm chiếm-đồng hóa dân tộc Việt Nam, xâm chiếm, chà đạp, hủy hoại những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc khác nhằm làm “bá chủ thiên hạ” của bọn Tàu Cộng, đã bị bóc trần hết sức rõ ràng. Chế độ “cộng sản” trị Tàu Cộng đang tỏ ra run sợ trước những đòn tấn công kinh tế và ý thức cảnh giác của nhân loại tiến bộ. Chúng nhất định sẽ thất bại vì chúng là mối đe dọa đối với an toàn, anh ninh của loài người tiến bộ, vì chúng đã và đang gieo rắc những mầm bệnh hiểm nghèo của chúng trên khắp hành tinh là sự sùng bái những sức mạnh kinh tế, những giá trị kinh tế-vật chất trần trụi, đi ngược lại những giá trị tích cực, văn minh của loài người là tự do, trung thực, sáng tạo, dân chủ, bình đẳng và công bằng. Do đó, nhân dân Việt Nam sẽ không sợ hãi vì không còn đơn độc, sẽ cùng nhân loại tiến hành cuộc đấu tranh chung chống lại chúng. Nhưng trong cơn dãy dụa vì thất bại nặng nề, chúng có thể làm những việc rất tàn độc để phá hoại kinh tế, đời sống, gây nên những mất mát và tai họa khôn lường trực tiếp đối với nhân dân Việt Nam, cho nên toàn thể nhân dân Việt Nam phải can đảm lập tức đứng dậy lật đổ chế động “cộng sản” để ngăn chặn chúng.

Khi nhân dân bước qua sự sợ hãi, thì đó cũng là lúc kẻ thù của nhân dân thực sự run sợ. Chúng sợ hãi vì chúng biết chắc chắn sẽ bị lật đổ và bị tiêu diệt, vì chúng biết sẽ mất tất cả những gì chúng cướp được vốn đem lại cho chúng cuộc sống vương giả, xa hoa, đồi trụy lâu nay. Chúng rất sợ hãi, vì chúng có một quá khứ quá độc ác và khốn nạn, không chỉ hại dân mà còn mang dã tâm bán nước. Vì vậy, chúng có thể điên cuồng chống lại nhân dân, tàn độc như thú dữ, nhưng đó là sự điên cuồng trong sợ hãi, của sợ hãi, của kẻ cùng đường, mù quáng với mối nghi ngờ sẽ bị trả thù, mà không hiểu rằng nhân dân sẽ độ lượng, bao dung. Sự điên cuồng của chúng càng khiến chúng sụp đổ nhanh chóng và thảm hại. Chúng sợ còn vì rất lo lắng trước việc quân đội có thể sẽ không làm theo lệnh của chúng đàn áp nhân dân giống như quân đội, cảnh sát ở Nga-Liên Xô và Cộng hòa Dân chủ Đức đã không bắn vào vào người dân của mình cho dù có lệnh của kẻ cầm quyền. Chúng sợ còn vì đang trở nên cô độc, khi lúc này các nước Triều Tiên, Cu Ba đang hướng đến từ bỏ vĩnh viễn “chủ nghĩa cộng sản” và thiết lập nền Tự do-Dân chủ. 

Người xưa nói “đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Trong những chế độ xã hội xưa kia, nhân dân đã từng chấp nhận đẩy những cái thuyền là nhà nước hay chế độ chính trị, khi chúng còn tích cực và cũng đã từng nhận chìm chúng khi chúng đã trở nên lỗi thời. Đối với chế độ “cộng sản” trị, nhân dân hoặc do ngộ nhận, hoặc bị ép phải đẩy cái “thuyền” vốn không phải của mình. Nhưng giờ đây nhân dân đã thấy rõ bộ mặt thật tà quyền của chế độ mang tên “cộng sản”, thấy rõ chiếc “thuyền” này đã trở nên hết sức mục nát, chưa ra khỏi luồng lạch đã bị mắc cạn, bởi nó do những kẻ ngu muội, nhưng vô cùng tham lam, tàn độc cầm lái. Cho nên, nhân dân sẽ không thể tiếp tục “đẩy” nó nữa, trái lại sẽ từ bỏ nó, đốt cháy nó một cách không thương tiếc, rồi đóng một CON TÀU mới đủ sức rẽ sóng ra khơi xa hội nhập với những CON TÀU lớn trên biển cả tiến bộ-văn minh của loài người. Ngày nhân dân có được CON TÀU ấy đang rất gần! 

Ngày 30 tháng 7 năm 2018