Wednesday, April 29, 2020

Những người ‘chưa từng về lại Việt Nam từ sau năm 1975’

Theo VOA-30/04/2020 
Người Việt hải ngoại vẫn tưởng nhớ ngày 30/4 hàng năm
Người Việt hải ngoại vẫn tưởng nhớ ngày 30/4 hàng năm
Một số người Việt rời Việt Nam đi tị nạn kể từ sau năm 1975 nói với VOA rằng họ chưa về lại lần nào, ‘vẫn sẽ không về nếu Đảng Cộng sản vẫn còn cầm quyền ở Việt Nam’ và mô tả điều mà họ cho là ‘tình hình tối tăm’ ở trong nước hiện nay.
Tháng Tư này đánh dấu tròn 45 năm ngày Sài Gòn sụp đổ mà chính quyền Hà Nội gọi là “ngày thống nhất đất nước”, nhưng hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi lánh nạn chế độ cộng sản xem là ngày “ngày quốc hận,” với làn sóng di tản ồ ạt của nhiều người Việt, mà phần đông là đến Hoa Kỳ.
VOA đã liên lạc với hai người trong số đó là ông Đinh Hùng Cường, hiện sống ở tiểu bang Virginia, và ông Võ Thành Nhân, hiện sống ở bang Maryland, để tìm hiểu lý do vì sao hai ông quyết định không về Việt Nam.
‘Vẫn là người Việt’
Ông Đinh Hùng Cường, trước năm 1975 nguyên là Quận trưởng Quận Thủ Thừa và có tham gia một trong những trận chiến cuối cùng với quân Bắc Việt vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975, cho biết cả gia đình ông ‘đều chống Cộng’.
Ông nói trong 45 năm qua, những người thân của ông còn lại ở Việt Nam như cha mẹ, anh em hay thân hữu ‘đa số đều đã chết hết rồi’ và mỗi lần có người thân qua đời ở Việt Nam, ông đều không về dự tang.
“Tôi không về khi người thân qua đời bởi vì tôi không bao giờ tin tưởng Cộng sản,” ông nói. “Mặt khác, tôi là người chống Cộng ở hải ngoại nên nếu tôi về sẽ bị họ làm khó dễ nên tôi quyết định không về.”
Ông Cường, từng là chủ tịch cộng đồng người Việt Quốc gia tại vùng Washington D.C., Maryland và Virginia, nói việc ông không về nước cũng là ‘một cách đối kháng với chính quyền Cộng sản’.
Khi được hỏi có đau lòng không khi không về gặp người thân lúc sinh ly tử biệt, ông trả lời: “Đau lòng của tôi là đất nước mình đã rơi vào tay Đảng Cộng sản làm cho cả dân tộc đau khổ còn người thân của tôi tới tuổi già thì phải chết thôi.”
“Bao nhiêu người Việt Nam ở đây (tức ở Mỹ) chỉ vì họ thương gia đình, thương dòng họ, họ gửi về biết bao nhiêu tiền nuôi chế độ đó (tức chế độ cộng sản),” ông bức xúc nói.
Theo lời ông thì vợ ông còn chống Cộng hơn cả ông và các con trai, con gái của ông, mặc dù rời Việt Nam khi còn rất nhỏ, ‘lớn lên đều đi biểu tình chống cộng sản’ và các con ông ‘đều không có ý định trở về để làm việc ở Việt Nam’ vì họ ‘học theo hệ thống Mỹ nên hiểu tự do, dân chủ’.
Trả lời câu hỏi có bao giờ có ý nguyện về lại quê hương không, ông Cường nói: “Có chứ! Tôi rất mong muốn trở về sinh sống với đồng bào, dân tộc tôi khi người cộng sản không còn là cộng sản. Họ phải có tình người, phải có nhân đạo. Còn nếu họ sống chỉ biết lợi lộc cho Đảng của họ thì trở về tôi cũng không thể sống như vậy được.”
Dù xa quê hương đã nhiều năm, ông Cường, vốn sinh ra ở Hà Nội và di cư vào Nam vào năm 1954, nói trong ký ức của ông, ông vẫn nhớ miền Nam ‘hiền hòa, lương thiện, có tình người và đối xử với nhau rất tử tế’.
Ông cho biết ông ‘vẫn coi Việt Nam là quê hương’ dù sống ở Mỹ đã lâu. “Mình có sống ở Mỹ đến 100 năm cũng không thể đổi thành da trắng được và cũng không thể nói tiếng Mỹ như người Mỹ được,” ông giải thích.
‘Không thực lòng hòa giải’
Về sự trở về của một số nhân vật nổi bật như cố Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, cố nhạc sỹ Phạm Duy, ông Cường nói ‘đó là quyền của họ’ mà ông không phê phán.
Tuy nhiên, ông bày tỏ nghi ngờ về ‘thành ý hòa giải’ của Đảng Cộng sản và cho biết đó là một trong những lý do ông không có lòng tin để trở về.
Ông chỉ ra chuyện dễ nhất để hòa giải là ‘trùng tu nghĩa trang quân đội Biên Hòa’ mà ‘chính quyền trong nước không làm’. “Những người đó đã chết rồi. Nếu giữ gìn thì đó là cử chỉ hòa hợp hòa giải với những người của Việt Nam Cộng hòa. Tại sao họ lại chà đạp nghĩa địa của những người đã chết như vậy,” ông nói.
Ông cho rằng Đảng Cộng sản hòa giải ‘theo kiểu của người chiến thắng muốn làm gì thì làm cần biết đến người chiến bại’ và nếu muốn hòa giải thật sự ‘cần phải bỏ sự kiêu căng đó đi’.
Cho dù chính quyền trong nước không còn gọi ngày 30/4 là ‘Ngày Giải phóng’ đi nữa mà chỉ gọi là ‘Ngày Thống nhất’ thôi thì vẫn chỉ là ‘bình mới rượu cũ’, ông nói.
“Vấn đề là sự thành thật, sự thật tâm. Nếu Cộng sản có thực tâm thì đồng bào dân chúng ngoại quốc người ta nhìn thấy ngay,” ông nói.
Mặc dù chưa về lại Việt Nam lần nào nhưng ông Cường cho biết ông ‘vẫn nắm tình hình tronrg nước’ qua ‘những người đấu tranh cho dân chủ tự do thông báo tin tức ra bên ngoài’ và thông tin mở rộng hơn xưa.
“Những chuyện như cướp nhà, cướp đất, giết người họ đều đưa lên mạng và chúng tôi nhìn thấy rõ ràng,” ông nói.
Ngoài ra, ông cho biết ông cũng được nghe những bạn bè ông kể lại những điều họ mắt thấy tai nghe khi về nước mà ông cho là ‘phồn vinh giả tạo’ vì hố sâu cách biệt rất lớn giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị với nông thôn.
Ông thừa nhận rằng sau gần nửa thế kỷ thanh bình thì ‘dĩ nhiên Việt Nam phải có thay đổi’ nhưng ‘thay đổi đó không theo kịp đà phát triển của thế giới’ và ‘chỉ làm lợi cho những người trong Đảng chứ không phải người dân’.
Mặc dù mong chế độ cộng sản trong nước ‘thay đổi’ để ông có thể về Việt Nam nhưng ông Cường cũng nhìn nhận rằng ‘những người như ông không còn làm gì được để thay đổi tình hình trong nước’.
“Chúng tôi đã tị nạn 45 năm nay rồi thì lấy sức lực gì để đòi cộng sản thay đổi?” ông nói. “Điều thực tế là những người cộng sản phải mở cái tâm họ ra và nhìn thấy thế giới hôm nay đã thay đổi.”
Ông cho rằng ‘chế độ cộng sản khó có thể sụp đổ’ nhưng ‘không thể nào độc quyền cai trị mãi được’ và ‘sẽ có lúc thực hiện đa đảng để cho người dân dân chủ, tự do’.
‘Sợ lá cờ Việt Cộng’
Còn ông Võ Thành Nhân, đại diện của Đài truyền hình SBTN tại vùng thủ đô Washington D.C., nói một trong những nguyên nhân chính khiến ông không về nước trong 40 năm qua là vì ông ‘sợ lá cờ Việt Cộng’.
“Về nước sẽ nhìn thấy nhiều cờ Việt Cộng, những bích chương, biểu ngữ họ tuyên truyền nên tôi không thích,” ông Nhân, người vượt biên sang Mỹ vào năm 1980 khi ông mới 23 tuổi, nói với VOA.
Theo lời ông giải thích thì lá cờ đỏ sao vàng gợi cho ông ‘cảm giác về một đoàn quân ác lắm trong chiến tranh’.
“Nhất là ngày 30/4 nhìn thấy cờ đỏ tràn ngập thành phố của mình (Sài Gòn), mình thấy khốc liệt quá, hãi hùng quá,” ông nói thêm.
“Lúc còn nhỏ tôi thấy những người xung quanh đi ‘cải tạo’ không thấy ngày về cũng sợ lắm. Lúc đó ai dám nói lên tiếng nói chống đối sẽ bị bắn bỏ,” ông giải thích thêm về ấn tượng của ông đối với màu cờ đỏ.
Ông cho biết lúc đi vượt biên thì ông đang học năm 4 Đại học Y khoa. Mặc dù sau khi tốt nghiệp ông có thể có tương lai vững vàng ở Việt Nam nhưng vì ‘không chấp nhận lý thuyết cộng sản’ nên ông quyết định ra đi. “Nếu ở lại thì tôi cũng phải gia nhập Đoàn, Đảng nếu muốn tồn tại, nhưng tôi không chấp nhận điều đó,” ông nói.
Ông cho biết vào thời điểm đó ông phải ‘che giấu lý lịch’ khi đi học đại học và rằng ông sợ rằng sau này nếu bị phát hiện thì ông sẽ bị trù dập hoặc ‘sẽ không được ưu đãi’.
Ông là người duy nhất trong gia đình khi đó đi vượt biên, ông nói, và kể từ đó ông chỉ duy trì liên lạc với người thân bằng cách ‘gặp gỡ ở một nơi nào đó không nhất thiết ở Việt Nam’.
“Mình chấp nhận mình nhớ quê hương, chấp nhận bị cách ly đất nước nhưng mình chỉ về khi nào không còn cộng sản,” ông Nhân nói.
‘Không còn cộng sản’ là điều mà ông Nhân cho rằng ‘có thể đến rất là bất ngờ, chẳng hạn như mâu thuẫn nội bộ khiến họ sụp đổ’.
Về vấn đề vì sao không thích chính quyền của Đảng Cộng sản lại dẫn đến việc quay lưng lại với quê hương, ông Nhân nói ông ‘không đánh đồng Đảng với đất nước, người dân’ nhưng vẫn quyết định không về.
“Tôi vẫn gặp phần nào những người dân Việt Nam, những người không chấp nhận cộng sản sống xung quanh tôi ở đây,” ông lý giải.
‘Sức chịu đựng cao’
Ông nói ông ‘khác với những người khác vốn đã từng về Việt Nam vì ‘thăm gia đình, thăm quê hương hay cha mẹ đau yếu’. “Sức chịu đựng của con người về sự nhớ thương quê hương, đất nước khác nhau. Tôi có thể chịu đựng được cả chiều dài đến khi nào cộng sản sụp đổ thì mới về,” ông Nhân nói thêm.
Ông giải thích rằng cách nhìn nhận của ông về Việt Nam là ‘không chấp nhận cộng sản’. “Một khi đã cảm thấy là kẻ ác rồi thì suy nghĩ không thay đổi,” ông nói.
Tuy nhiên, ông không cho rằng đó là định kiến mà là ‘cách nhìn nhận chung của nhiều người đang sống ở hải ngoại’
Khi được hỏi tại sao trong bức tranh đầy u tối mà ông nhìn nhận về Việt Nam mà trên 90 triệu người dân trong nước vẫn sống bình thường, ông Nhân nói: “Có thể người dân trong nước chấp nhận hoàn cảnh được sống là vui rồi. Trong khi đó hoàn cảnh của mình ở đây khác. Sự hiểu biết cho phép mình suy nghĩ khác. Sự khác nhau đó cho thấy rằng có thể người dân tiếp tục bị cộng sản áp đặt chế độ độc tài cai trị,” ông Nhân nói. (46:00)
Ông cũng chỉ ra rằng ‘có nhiều người không chấp nhận chế độ nên bỏ nước ra đi’ và rằng ‘nhiều người yên lặng chưa chắc là họ chấp nhận chế độ cộng sản’.

45 năm biến cố lịch sử 30.4.1975-Nhìn lại quá khứ, nhìn tới tương lai

Lịch sử không có chữ “nếu”…
Lại sắp đến ngày 30.4. Biết rằng lịch sử không có chữ “nếu” nhưng 45 năm rồi vẫn đau, nếu không phải MB mà là MN thắng, thì số phận của đất nước này, dân tộc này chắc chắn sẽ rất khác.
Sẽ không có những chính sách duy ý chí sai lầm của “phe thắng cuộc” sau năm 1975, đã phá hoại các thành tích kinh tế lẫn mọi mặt của MN, đẩy cả nước đến bờ vực chết đói đến mức phải buộc lòng “mở cửa”, “đổi mới” năm 1986, thực chất là “đổi cũ” vì quay trở lại học theo cách làm ăn kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Sẽ không có hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, một nửa vĩnh viễn nằm lại dưới biển khơi, chỉ một nửa đến được bến bờ tự do, ghi thêm hai chữ “thuyền nhân” vào từ điển thế giới; và không chỉ có thế suốt 45 năm qua người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi, bằng đủ mọi cách, đi làm thuê làm gái làm dâu xứ người…Sẽ không có hàng triệu dân oan bị mất nhà mất đất, hàng ngàn người phải vào tù hay phải lưu vong chỉ vì muốn thực hiện quyền tự do ngôn luận hay muốn bày tỏ lòng yêu nước chống Trung Quốc hung hăng trên biển Đông.
Sẽ không có cuộc chiến 10 năm ở biên giới phía Tây với Khơ Me Đỏ khiến VN sau đó bị Mỹ và phương Tây cấm vận, đã khó khăn càng khó khăn thêm; không có cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Cộng làm mất đi một phần lãnh thổ dọc biên giới, chưa kể máu xương người Việt tiếp tục đổ xuống cho 2 cuộc chiến tranh này. VN sẽ không bị tụt hậu hàng chục hàng trăm năm so với các nước láng giềng chứ chưa nói đến thế giới. Đất nước dưới sự lãnh đạo bất tài và nạn tham nhũng kinh hoàng của đảng cộng sản đang còn lại gì? Tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị tàn phá, giáo dục tụt hậu, văn hóa nghệ thuật không cất cánh nổi vì thiếu tự do, đạo đức xã hội xuống cấp, tính thiện và sự tốt đẹp trong con người ngày càng bị hủy hoại nhường chỗ cho cái ác, cái xấu…
Không chỉ có vậy, nếu VN là một quốc gia tự do dân chủ, đồng minh của Hoa Kỳ bao lâu nay và Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đóng quân ở VN như đã từng đóng quân ở MN, thì chúng ta đã không mất Hoàng Sa-Trường Sa, không mất một phần lãnh thổ lãnh hải, và Trung Cộng vẫn không có một mảnh đất cắm dùi trên biển Đông như trước kia, chứ đừng nói đến chuyện xây căn cứ quân sự, hải quân, xây thêm đảo nhân tạo, từng bước biến biển Đông thành “ao nhà” như hiện nay…
Những ngày này, lợi dụng thế giới đang lao đao chống đại dịch COVID-19, Trung Cộng tiếp tục leo thang trên biển Đông và khi VN phản đối thì Bắc Kinh chìa cái “công hàm 1958” của Phạm Văn Đồng, Cố Thủ tướng nước VNDCCH, càng nhắc nhớ cho người Việt về sự ngu muội của những người lãnh đạo đảng cộng sản VN và quyết tâm muốn độc chiếm biển Đông không bao giờ từ bỏ của Bắc Kinh.
Cuối cùng ai thắng ai thua?
Người Mỹ thua, phải rút khỏi MN, VNCH thua bị bức tử vĩnh viễn, điều đó đã rõ. Nhưng đảng cộng sản VN có thật đã chiến thắng? Nếu nhìn chiến thắng là giành được độc quyền lãnh đạo cả nước VN, để bây giờ họ muốn sở hữu, cho thuê, cầm cố, đem bán…từ lãnh thổ lãnh hải, tài nguyên đất nước cho đến mồ hôi sức lao động của nhân dân như thế nào là tùy ý, thì họ đã thắng. Một cuộc chiến dài 20 năm với hàng triệu người chết chỉ đem lại quyền lợi cho riêng đảng cộng sản.
Nhưng như rất nhiều người đã phân tích, “thắng trong chiến tranh mà thua trong hòa bình”.
Chiến thắng nhưng có thu phục được nhân tâm? Suốt 45 năm qua, họ vẫn không thu phục được nhân tâm người MN, và ngày càng không thuyết phục được phần lớn người dân VN tin vào mô hình thể chế, vào con đường đi lên CNXH của họ.
Chiến thắng nhưng phản bội lại tất cả mọi thứ? Đã từ lâu, những người CS đã phản bội lại lý tưởng xây dựng một nước XHCN giàu mạnh, công bằng, tốt đẹp gấp trăm lần các nước tư bản phương Tây, phản bội lại toàn bộ học thuyết, lý luận chủ nghĩa Mác Lenin, học theo mô hình làm ăn kinh tế thị trường. Xã hội VN bây giờ hoàn toàn không phải là một xã hội XHCN, mà là một xã hội tư bản thời kỳ hoang dã kết hợp với mô hình thể chế độc tài toàn trị, thế thôi. Những người CS bây giờ xài đồ Mỹ, có bệnh thì chạy sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây để chữa trị, con cái thì gửi sang Mỹ sang Tây học, khi về già cũng lại chạy sang các nước “tư bản giãy chết” để hưởng thụ tuổi già. Đó không phải là một sự phản bội trắng trợn lại lý tưởng, mục tiêu chiến đấu ngày xưa là gì?
Không những đã phản bội lại máu xương của hàng triệu thanh niên MB đi theo đảng vì tin vào con đường “chống Mỹ cứu nước xây dựng CNXH tươi đẹp”, họ cũng phản bội xương máu của những người lính đã ngã xuống ở Trường Sa, trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc khi quay lại bắt tay với Trung Cộng, gọi kẻ thù là đồng chí, anh em và nhiều năm sau vẫn không dám nhắc đến cuộc chiến này.
Trả một cái giá quá đắt cho 3 cuộc chiến tranh liên tiếp để bây giờ chủ quyền và độc lập của đất nước vẫn bị đe dọa, người dân chưa bao giờ được hưởng tự do dân chủ, hạnh phúc ấm no, thì cái giá ấy có quá đắt?
Chiến thắng của những người cộng sản vào tháng Tư năm 1975 là một cú chơi khăm của lịch sử, là một sự sai lầm khủng khiếp đối với dân tộc Việt như đã và đang được chứng minh trong suốt 45 năm qua. Nó cũng đã xoay chuyển bàn cờ địa chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương theo hướng hoàn toàn có lợi cho Trung Cộng, hay như nhiều người từng nói: Chiến thắng lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam thuộc về Trung Cộng.
Thắng như vậy có gọi là chiến thắng?
Ngược lại, VNCH thua nhưng sau 45 năm, những tác phẩm văn học nghệ thuật của MN từ âm nhạc, văn học, thi ca, kiến trúc…vẫn được đông đảo người Việt thuộc các thế hệ trong và sau chiến tranh của cả hai miền Nam Bắc tìm đọc/nghe/xem, những thành tựu của VNCH về giáo dục, kinh tế, điều hành xã hội vẫn hơn hẳn nước CHXHCN VN, con người của MN vẫn không mất đi những giá trị tốt đẹp căn bản như lòng tốt, sự hào phóng, sự tử tế, lương thiện, lá cờ của chế độ VNCH vẫn được hàng triệu người Việt lưu vong mang theo trong mình khi đến sống ở bất cứ quốc gia nào và lá cờ ấy tiếp tục tung bay tại nhiều thành phố khác nhau từ Mỹ sang Âu, Úc, Canada…Như thế là thua mà thắng, chết mà không chết vậy.
Con đường nào cho VN?
Ngay từ khi mới thành lập, đảng cộng sản VN đã dựa dẫm vào sự hỗ trợ, giúp đỡ của các đảng cộng sản khác. Người sáng lập và là lãnh tụ của đảng cộng sản VN, biểu tượng của “cuộc cách mạng VN”, Hồ Chí Minh, như nhiều tài liệu về sau đã chứng minh, đã có nhiều năm hoạt động cho cộng sản Nga, cộng sản Tàu, nhận chỉ thị của Nga, Tàu trong mọi việc. Trong cuộc chiến VN, đảng cộng sản cũng nhận viện trợ từ vũ khí, tài lực nhân lực của các nước XHCN mà chủ yếu là từ Liên Xô, Trung Cộng. Một đảng không có xương sống, không tự đứng một mình được.
Khi xây dựng đất nước cũng vậy, đảng và nhà nước cộng sản VN chỉ biết học và copy theo những gì mà các đảng và nhà nước cộng sản đàn anh Liên Xô, Trung Cộng đã làm, từ lý thuyết lý luận, mô hình thể chế cho tới từng chính sách cụ thể. Khi Liên Xô còn thì họ đu dây giữa hai đàn anh nhưng đi theo mô hình của Liên Xô, khi Liên Xô sụp đổ thì họ hoảng loạn, quay sang cầu cứu Trung Cộng, nhận Bắc Kinh làm thầy và bắt đầu sao chép mô hình của Trung Cộng. (Chỉ có điều là mọi việc họ làm chậm hơn chừng 10 năm và là một phiên bản tồi hơn).
Trong khi đó, các thế hệ lãnh đạo Trung Cộng từ Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình… cho tới Tập Cận Bình, mặc dù là những kẻ phạm tội ác đối với nhân dân Trung Hoa và đối với nhân loại nhưng mặt khác, đều là những kẻ nhìn xa, tham vọng lớn và có những chiến lược, kế hoạch dài hàng mấy chục năm, trăm năm cho đất nước họ. So với họ, các thế hệ lãnh đạo Việt Cộng từ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… cho tới Nguyễn Phú Trọng, chỉ là những kẻ ngu muội và có tầm nhìn ngắn hơn nhiều; nên dân tộc này đã phải trải qua một cuộc chiến huynh đệ tương tàn và cho tới bây giờ VN vẫn là một nước nghèo, tụt hậu lại bị nằm trong cái vòng kềm tỏa của Trung Quốc.
Thời gian đã chứng minh cho họ chọn đi theo Liên Xô là sai, và cũng đang chứng minh đi theo Trung Cộng là chỉ từ thiệt thòi đến mất nước. Mất nước thì liệu có còn giữ được chế độ?
45 năm đã qua rồi. Liệu đến bao giờ thì những người lãnh đạo đảng cộng sản VN hiểu ra rằng đã đến lúc thức tỉnh, tự suy nghĩ bằng cái đầu độc lập của mình, lựa chọn con đường đúng mà đi, chọn bạn tốt mà chơi trước khi quá muộn? Với thói quen dựa dẫm, đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi của đất nước, dân tộc, lại sợ hãi mọi sự thay đổi, có thể thấy rằng câu trả lời là không, họ chỉ cố sống cố chết bám chặt quyền lực mà thôi.
Viết lại lịch sử, do đó, là trách nhiệm của người dân, và chỉ của người dân, không trông chờ vào bất cứ sự giúp đỡ từ bên ngoài hay sự thay đổi nào từ bên trên cả.

45 năm sau, con đường nào cho giáo dục Việt Nam

Vào những ngày tháng kỷ niệm 45 năm chủ nghĩa cộng sản thống trị trên toàn cõi đất nước, nếu phải chọn một chủ đề để nói về những thất bại của họ, chắc chắn chủ đề đó phải là giáo dục, và những ai còn nghĩ về tương lai của dân tộc, chắc chắn sẽ phải đặt những câu hỏi: Đảng CSVN đã tàn phá nền giáo dục như thế nào? và đến bao giờ đất nước mới thoát ra khỏi cảnh u tối của ngày hôm nay?
Để có một cái nhìn từ cội rễ vấn đề, trước tiên chúng ta phải căn cứ vào những văn bản, những chủ trương chính thống của hai thể chế. Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Việt Nam Cộng Sản.
Trong chế độ VNCH, ta có thể tóm tắt các chủ trương giáo dục vào 3 triết lý chính:
− Nhân bản: Chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế giới; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời làm căn bản; xem con người như một động lực của sự phát triển chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ;
− Dân tộc: Giáo dục phải biểu hiện, bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác;
− Khai phóng: Giáo dục phải không ngừng hướng tới sự tiến bộ, tôn trọng tinh thần khoa học, mở rộng tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, tinh hoa văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội.
Cả 3 triết lý này được ghi vào Hiến Pháp, và là kim chỉ nam cho mọi chủ trương về giáo dục trước năm 1975.
Riêng về phía chế độ Cộng sản ở miền Bắc và ngày nay trên toàn thể đất nước, Luật Giáo Dục 2005 đã quy định:
Điều 2. Mục tiêu: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
Điều 3.1. Tính chất, nguyên lý giáo dục: Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Điều 40. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học: Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản, ngoại ngữ và công nghệ thông tin với kiến thức chuyên môn và các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận xét đầu tiên mà ai cũng có thể thấy đó là phía VNCH đề cao những giá trị phổ quát của nhân loại. Ngược lại, phía CS nhấn mạnh đến một chủ nghĩa chính trị (cộng sản) đi kèm theo tư tưởng của những con người đi theo lý tưởng này (Mác, Lênin, Hồ Chí Minh). Có lẽ đây là đặc thù chung của các nước độc tài.
Và 45 năm sau ngày thống trị toàn thể đất nước, ngay cả những người cầm quyền cũng như báo chí chính thống và các nhà giáo cũng đều phải nhận ra được rằng họ đã đưa cả một nền giáo dục đến một tình trạng suy đồi và không hề thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Vụ gian lận thi cử ở Hội đồng thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) tại Trường Đồi Ngô (Bắc Giang) khi có tới 42 cán bộ, giáo viên, nhân viên dính líu gây chấn động dư luận và được báo Thanh Niên mô tả là “chưa từng có trong lịch sử loài người.” Nhưng “cái lịch sử” ấy lại được lặp lại 6 năm sau với vụ gian lận trong công tác tổ chức, chấm thi ở kỳ thi tốt nghiệp THPT 2018 tại 3 tỉnh Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình. Lần này vụ việc được báo điện tử Vietnamnet đánh giá là “chưa từng có trong các kỳ thi quốc gia.”
Song song với gian lận trong thi học hành, thi cử, tình trạng bạo lực học đường cũng diễn ra với một mức độ chưa từng có: Học sinh lớp 8 mắng chửi và bóp cổ cô giáo; phụ huynh bênh con xông vào trường đánh gẫy sống mũi thầy giáo; cô giáo ra lệnh cho học sinh tát một bạn trong lớp 231 cái vì nói chuyện trong giờ học; học sinh đánh nhau, lột quần áo, hạ nhục nhau công khai… Tất cả đều trở nên những chuyện thường ngày và dư luận thì chỉ biết thở dài ngao ngán!
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đương nhiên, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (GD&ĐT) phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu quy tất cả trách nhiệm cho ngành giáo dục thì hoàn toàn không khách quan và không công bằng. Lý do là giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, còn Bộ GD&ĐT là cơ quan phải thực thi theo đúng chủ trương đã được hoạch định. Và chủ trương thì đã được ghi rõ trong Luật Giáo Dục như đã đề cập ở trên.
Khách quan mà nói, trong nhiểu năm qua, nhiều đời bộ trưởng, trưởng các ngành giáo dục đã lập nhiều ủy ban, đưa nhiều đợt cán bộ, công chức để cố gắng tìm tòi, tham khảo nhiều mô hình giáo dục của các quốc gia tiên tiến áp dụng vào Việt Nam nhưng hoàn toàn bế tắc và chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Nguyên nhân một phần là tiếp thu chắp vá, nhưng phần chính là do cơ chế giáo dục Việt Nam không có môi trường cho các mô hình giáo dục tiên tiến vận hành để mang lại hiệu quả.
Vậy thì mô hình nào mới đem lại kết quả?
Trước tiên phải nói đến khối lượng và cách phân bổ kiến thức. Theo Giáo Sư Hoàng Xuân Sính, lối học nhồi nhét của Việt Nam ngày nay rất lạc hậu và đi ngược lại sự phát triển trí tuệ của học sinh. Để dễ hiểu, chúng ta có thể ví việc học như một cuộc chạy trường lực. Vào những năm tháng trung, tiểu học, các em chỉ cần học thông, viết thạo, biết tính toán và đặc biệt là để định hình bản thân và chung sống với người khác. Ngoài kiến thức hàn lâm nhà trường còn chú trọng đến việc rèn luyện thể chất và các kỹ năng sống. Tất cả như để chuẩn bị các bước chạy xa trên đại học.
Thứ hai, về nội dung kiến thức. Tại các nước phát triển, nhà nước tạo cơ chế mở và quyền tự chủ, thông thoáng cho các nhà trường. Nhờ vậy, họ phát huy được tối đa tính chủ động, năng lực sáng tạo của các cơ sở giáo dục trong tự do học thuật cũng như trong xây dựng chiến lược phát triển nhà trường. Trong không gian giáo dục như vậy, người thầy không phải là nhà truyền giáo, áp đặt một chiều kiến thức có sẵn, mà là người bạn đồng hành của học sinh trong quá trình tìm tòi, khám phá tìm ra chân lý.
Chính vì thế nền giáo dục không bị xơ cứng, thoái hóa, lạc hậu với thời gian mà ngược lại luôn sống động tạo ra các sản phẩm là những con người có tư tưởng khai phóng, có tư duy độc lập; có năng lực phản biện và dám phản biện bảo vệ chân lý; luôn chủ động, sáng tạo trong công việc, trong cuộc sống hàng ngày của bản thân và trong đời sống xã hội. Trên đây là ý kiến của một độc giả đã được đang trên báo điện tử Vietnamnet.
Thứ ba, trả lương xứng đáng cho các thầy cô. Hiện nay, hai ngành có mức lương thấp nhất trong xã hội là sư phạm và nông nghiệp, ngược lại, ngành có mức lương cao nhất là an ninh. Theo một công bố của Bộ GD&ĐT, thì lương khởi điểm của giáo viên trung bình khỏng 3,5 triệu. Sau 18 năm thâm niên, lương tăng 2,4 lần, nghĩa là chỉ bằng lương của một công nhân nhà máy Samsung. Với mức lương bèo bọt này thì các thầy cô khó chu toàn trách nhiệm và dễ dẫn tới các tiêu cực. Hiện có khoảng 1 triệu giáo viên trung, tiểu học. Nếu đồng loạt tăng mỗi người 50 USD/tháng thì tốn 600 triệu USD/năm, nghĩa là chỉ bằng 6% ngân sách giáo dục.
Ba điều trên đây không phải là chướng ngại khó, nhưng sao mãi chúng ta không thể vượt qua? Quả đúng như thế! Rất dễ, nhưng ở Việt Nam thì rất khó, vì:
− Giảm tải cho học sinh ư? Nếu thế thì sách giáo khoa in ra hàng triệu cuốn ai mua? Cho đến nay đã thay sách giáo khoa 3 lần. Có lần Bộ GD&ĐT đã xin một ngân khoản 70 ngàn tỉ, tương đương với 3 tỉ USD chỉ để thay sách! Một con số chóng mặt.
− Loại bỏ các môn vô bổ như “Lịch sử Đảng, Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế học Mác Lê, Tư tưởng Hồ chí Minh” và thay vào các môn Đào tạo nhân cách, Khái niệm về Quyền Con Người, Tư duy phản biện… ư ? Người nào đề nghị chắc phải thực sự can đảm hoặc chán sống!
− Loại bỏ các giáo viên yếu, vô kỷ luật ư? Có mà anh bị loại trước không chừng? Chúng là dạng 5C (con cháu các cụ cả).
− Cho đại học quyền tự chủ ư? Được! nhưng cơ sở đảng vẫn phải duy trì và nội dung vẫn do đảng kiểm soát.
Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu thế nào là sự khác biệt giữa hai nền giáo dục của VNCH và Việt Nam Cộng Sản.
Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu tại sao Bộ Luật Giáo Dục 2005 nó chi phối đến cuộc sống và chính sách giáo dục của Việt Nam hiện nay.
Đến đây thì mọi người có lẽ đã hiểu rằng chỉ có một cách để cải tổ sâu rộng nền giáo dục nước nhà và đưa đất nước vào một kỷ nguyên mới đó là, xóa bỏ chế độ độc tài để xây dựng một xã hội thực sự nhân bản.
Phạm Minh Hoàng

Môi trường sống đang chết dần bởi bàn tay quan chức Cộng Sản

Mức độ ô nhiễm không khí tại Việt Nam ngày càng tệ hại.
Đặng Xuân Diệu – Web Việt Tân
Sau hơn ba mươi năm, đất nước Việt Nam núp bóng dưới mỹ từ “đổi mới”, nhưng môi trường sống lại trở nên ngày một tồi tệ đến mức nguy hiểm đến cuộc sống và tính mạng người dân. Tình trạng ô nhiễm diễn ra khắp nơi, từ biển khơi tới rừng núi cao, từ hải đảo Phú Quốc đến thung lũng Tây Bắc. Câu nói cửa miệng của mọi người Việt Nam hiện nay là “mọi thứ đều bị ô nhiễm.”
Một nghiên cứu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ về bảo vệ hệ sinh thái công bố vào năm 2018, Việt Nam đứng thứ 131 trên toàn cầu, thấp hơn cả Trung Quốc đứng thứ 109. Trong đó có một số chỉ tiêu cơ bản mà Việt Nam đứng sát đáy của nhóm 10 nước tồi tệ nhất về xử lý nước thải, ô nhiễm bụi và mật độ che phủ rừng.
Theo báo cáo năm 2017 của tổ chức Ocean Conservacy, Việt Nam là nước đứng thứ 4 trong số các quốc gia gây ô nhiễm môi trường biển nhiều nhất trên thế giới. Trong đó, rác nhựa của 5 nước gồm Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Sri Lanka thải ra biển nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trên thế giới cộng lại. Riêng tại Việt Nam vào năm 2016, công ty Formosa đã gây thảm họa môi trường khiến cá chết hàng loạt trên chiều dài hơn 300 km dọc bờ biển mà đến nay chưa hồi phục.
Về ô nhiễm không khí, theo số liệu từ EPI (The Environmental Performance Index) của Hoa Kỳ thực hiện và công bố, Việt Nam hiện đang đứng trong nhóm 10 quốc gia ô nhiễm không khí nhất Châu Á. Đáng lưu ý, tổng lượng bụi ở Hà Nội và TP. HCM liên tục tăng cao, khiến chỉ số chất lượng không khí (AQI – Air Quality Index) luôn ở mức dẫn đầu trong số 10 thành phố ô nhiễm nhất thế giới.
Thật vậy, chúng ta không khỏi giật mình khi xem những con số do Bộ Tài Nguyên và Môi Trường báo cáo vào tháng Tám, 2019 như sau: (không loại trừ khả năng con số thực tế còn kinh khủng hơn).
Mỗi năm, cả nước đã thải ra môi trường hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật; phát sinh hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt; hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp; hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại từ nguồn khác. Riêng lượng tro xỉ thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than đang vận hành ước tính 12,2 triệu tấn và chủ yếu tập trung tại khu vực miền Bắc (chiếm 60%), miền Trung (chiếm 21%) và miền Nam (chiếm 19%). Chúng ta đều biết hệ thống nhà máy nhiệt điện này đều nhập khẩu máy móc, dây chuyền công nghệ từ Trung Quốc 4 tốt.
Trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m³ nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Trên 5.000 doanh nghiệp khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng; hơn 4.500 làng nghề. Hơn 13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m³ nước thải y tế.
Cả nước hiện có 787 đô thị với 3.000.000 m³ nước thải/ngày đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý trước khi chảy thẳng ra kênh mương, sông rạch. Hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải, trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan.
Như vậy, phải nói rằng người dân cả nước đang sống trong tình trạng nguy hiểm, do ô nhiễm môi trường ngày càng lớn cả về quy mô lẫn mức độ độc hại từ đất đai canh tác, nguồn nước mặt, nước ngầm và không khí . Bằng chứng là thời điểm này ở các khu đô thị Việt Nam, để tìm được một con sông hay kênh đào có nguồn nước trong sạch theo tiêu chuẩn bình thường là điều vô cùng hiếm. Nước vốn là chất không màu, không mùi nhưng giờ đây tại Việt Nam, nước hầu hết đã có màu nâu, thậm chí màu đen và có mùi hôi thối.
Để môi trường sống của người dân trên cả nước dẫn đến thảm trạng như ngày hôm nay là do rất nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân cốt lõi và nền tảng nhất chính là xuất phát từ giới lãnh đạo của đảng Cộng Sản không có tầm nhìn chiến lược hay còn gọi là thiếu sự hiểu biết về việc xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi lòng tham của quan chức kể từ khi mở cửa phát triển kinh tế được dịp nở rộ. Các quan niệm “ăn xổi ở thì” trong thời bao cấp được nâng lên một tầm cao mới trong hệ thống kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó trở thành tư duy “vơ vét theo nhiệm kỳ” và “sống chết mặc dân, tiền quan bỏ túi.
Nhìn về quá khứ chúng ta thấy rõ ràng thảm trạng môi trường của Việt Nam bắt nguồn từ sai lầm về việc xây dựng hệ thống giao thông quốc gia, lập quy hoạch cơ sở hạ tầng đô thị và chủ trương phát triển nông thôn. Bắt đầu từ năm 1996 sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và kỷ niệm 10 năm chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, cầu đường bắt đầu hình thành và mở rộng ở mọi nơi.
Các định chế tài chính quốc tế và các quốc gia phát triển ào ào đổ ngân quỹ vào viện trợ cho Việt Nam, khiến cho cả một dải đất hình chữ S bỗng trở thành một bãi xưởng công trường kéo dài hơn 20 năm nay mà vẫn ngổn ngang mịt mù khói bụi. Để kịp giải ngân, các dự án được vẽ ra và phê duyệt rầm rộ trong cái tầm nhìn hạn hẹp ấy, sau đó phân chia cho các tổng công ty nhà nước, tập đoàn tư nhân, doanh nghiệp cá nhân, tập đoàn quốc tế… thi nhau đào núi, ngăn sông, lấp hồ, đắp đập thủy điện… khiến cho hệ thống thủy văn tự nhiên hàng ngàn năm nay bị phá vỡ hoàn toàn.
Mẹ Việt Nam kể từ đó và nhiều năm sau này phải luôn gồng mình chịu cảnh hạn hán, lũ lụt thảm khốc như là một tất yếu.
Rõ ràng là với một thể chế độc tài cả về cơ cấu lẫn tư tưởng đã sản sinh ra hàng hàng lớp lớp thế hệ cán bộ tham lam vô độ. Do đó việc mở cửa phát triển kinh tế theo cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, đã làm cho đất nước bị phân chia, xé nát ngay từ đầu và sau này cứ chạy theo chắp vá, giải tỏa, đền bù… khiến cho sai lầm chồng chất sai lầm.
Bắt đầu từ tư duy thiển cận trong một hệ thống chính nhơ nhớp, hàng ngàn thứ hệ lụy về môi trường và xã hội đã bắt đầu sinh sôi nảy nở, để rồi đến nay sau 45 năm cai trị toàn cõi Việt Nam, đảng Cộng Sản đã biến đất nước với rừng vàng biển bạc, đất đai phì nhiêu thành một tổ quốc cạn kiệt mọi thứ ngoại trừ bất công lan tràn.
Đặng Xuân Diệu

Những trò trả thù hèn hạ

Những năm gần đây, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam ra tay đàn áp những người bất đồng chính kiến, những người cất tiếng nói cho sự thật, cho đời sống người dân đang ngày càng khốn khổ dưới sự cai trị của Đảng cộng sản ngày càng khốc liệt và tàn bạo.
Mới đây, lợi dụng những ngày đại dịch do virus Vũ Hán gây ra trên khắp thế giới, trong khi người dân Việt Nam đang khốn đốn với những biện pháp cách ly, nghỉ việc và đối mặt với đầy rẫy những khó khăn trong đời sống hàng ngày, thì nhà cầm quyền CSVN tiến hành những hành động trấn áp, bắt bớ và xét xử một cách bất công và hết sức vô lý đối với nhiều người.
Tại Nghệ An, chỉ trong mấy ngày cuối tháng tư, nhà cầm quyền đã tiến hành hai cuộc trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến.
Ngày 20/4/2020, nhà cầm quyền Nghệ An đã tiến hành cái gọi là “Phiên tòa phúc thẩm” đưa thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh ra gọi là “Xét xử” trong một phiên tòa bí mật, thậm chí gia đình, vợ con không hề được vào tham dự.
Tội trạng mà nhà cầm quyền Nghệ An đã gán ghép cho thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh là “Tuyên truyền chống nhà nước” – một dạng tội phạm mơ hồ và hết sức mông lung được viện dẫn từ cái gọi là “luật” của nhà nước Việt Nam. Qua đó, những người có quyền hành bắt bớ, truy tố, xét xử tha hồ suy diễn theo khả năng của mình nhằm kết tội người dân.
Bất chấp những lời phản đối của nhiều tầng lớp nhân dân, bất chấp những lời kêu gọi của nhiều tổ chức quốc tế cũng như hoàn cảnh khốn khổ của nạn nhân, tại phiên tòa này, nhà cầm quyền Nghệ an vẫn kết tội và tuyên y án 11 năm tù giam, 5 năm quản chế đối với thầy giáo này.
Cũng ngay sau đó, ngày 23/4/2020, nhà cầm quyền Nghệ An lại tiếp tục bắt giữ ông Trần Đức Thạch, cựu chiến binh quân đội Việt Nam cộng sản, nhà thơ và là một người dân tại Nghệ An.
Tội trạng của ông, qua báo chí nhà nước cung cấp thông tin là “Hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân”.
Việc bắt bớ liên tục những người dân dám mở miệng nói lên điều gì? Tội trạng của họ là những tội gì?
Tuyên truyền chống nhà nước?
Tội trạng mà nhà cầm quyền gắn cho thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh là “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và tuyên phạt anh 11 năm tù, 5 năm quản chế sau khi ra tù đó là tội gì?
Trước hết, chưa cần phân tích nội dung những gì mà cái gọi là Tòa án đưa ra để kết tội thầy giáo này. Chỉ riêng điều luật được trích dẫn là Điểm: a, b, c – Khoản 1 – Điều 117 Bộ luật Hình sự của nhà cầm quyền đưa ra đã cho thấy sự hài hước và chứa đầy đủ nghịch lý trong từng câu, chữ.
Có lẽ nhiều người còn nhớ, chính qua các đời Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay, vẫn chưa ai định nghĩa được như thế nào là nước Xã hội Chủ nghĩa. Và chính Nông Đức Mạnh, người đã từng giữ hai nhiệm kỳ chức vụ Tổng bí thư, chức vụ cao nhất của đảng cộng sản đã nói rằng: “Chủ nghĩa Xã hội là gì thì dần dần sẽ được làm sáng tỏ”.
Cũng chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng CSVN đã nói rằng: “Cho đến cuối thế kỷ này, chưa chắc đã thấy Chủ nghĩa Xã hội”.
Điều đó có nghĩa rằng, cho đến nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới chưa từng xuất hiện cái gọi là “Chủ nghĩa xã hội”.
Điều đó cũng có nghĩa là cho đến nay, cái gọi là “Chủ nghĩa Xã hội” vẫn là một thứ bánh vẽ, là sản phẩm của những bộ óc hoang tưởng kinh niên tạo ra lừa bịp cả thế giới mà chưa ai có thể hình dung được hình hài của nó ra sao.
Thế thì cái gọi là “Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là nước nào? Đó là một thực thể không hề tồn tại và cũng chính vì thế không thể có một Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Vậy thì việc gán cho người dân “Chống lại nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là việc hoàn toàn vô nghĩa. Bởi chẳng ai có thể chống lại cái không tồn tại trong thực tế.
Thực tế của cái gọi là “Nhà nước CHXHCN Việt Nam” đó là gì?
Thực chất, đó là một tập đoàn cai trị được dựng lên bằng súng đạn, bằng cướp chính quyền và cai trị người dân bằng bạo lực, bằng họng súng và nhà tù. Cái gọi là “Chính quyền” đó, thực chất là một tập đoàn tiếm quyền, cướp ngôi dựng lên một chế độ độc tài, phản dân, hại nước.
Và với một chính quyền phản dân, hại nước, một chính phủ không phục vụ đời sống người dân mà chỉ lo hèn với giặc, hung dữ với nhân dân thì chính Hồ Chí Minh đã nói rằng: “Người dân có quyền loại bỏ chính phủ nếu chính phủ không phục vụ cho nhân dân”.
Vậy thì chính những việc nhà cầm quyền CSVN đã và đang làm, tự nó đã nhổ toẹt vào cái gọi là “Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh” và càng làm rõ hơn rằng, đó chỉ là một phong trào lừa bịp không hơn không kém.
Với Thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh, anh đã làm gì nên tội?
Anh là một người thầy giáo mẫu mực, một người cha, người chồng chăm chỉ, thủy chung và hết lòng với không chỉ gia đình mà còn là người biết đau nỗi đau chung của cả đất nước, cả dân tộc, biết chia sẻ những khó khăn, những đau khổ của người nghèo, người bất hạnh trong xã hội.
Là một thầy giáo, anh biết dạy cho con em những giá trị làm người, dạy cho họ biết giữ gìn, chăm lo cho gia đình, xã hội. Và trước hết là biết đòi quyền sống, quyền tự do, quyền con người cho chính mình, cho nhân dân và đất nước mình. Cũng như biết gìn giữ, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ những giá trị thiêng liêng mà từ hàng ngàn năm nay người dân Việt Nam đã xây đắp nên bằng máu xương bao thế hệ.
Vậy nhưng những việc làm của anh, những việc làm mà cả xã hội khi biết rõ đều thừa nhận là những việc làm tốt, hợp đạo lý làm người, phù hợp luật pháp của chính nhà cầm quyền đưa ra, lại là những hành động “chống lại nhà nước CHXHCNVN”?
Vậy cũng có nghĩa là cái Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực chất là đại diện cho những sự vô luân, vô pháp, sự táng tận lương tâm bởi thói ích kỷ, hèn hạ và nhằm cướp đoạt càng nhiều cho sự ích kỷ của bản thân, của phe nhóm, đảng phái mà quên đi Tổ Quốc, nhân dân và dân tộc?
Lật đổ chính quyền nhân dân?
Cựu chiến binh Trần Đức Thạch, người đã từng cầm súng phục vụ chế độ cộng sản không tiếc máu xương, hy sinh cả một đời trai trẻ của mình cho cuộc chiến mà đảng phát động. Đó là cuộc chiến nồi da nấu thịt nhằm thỏa mãn cho sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản mà đảng đã chủ trương nhằm thực hiện nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản.
Kết quả của cuộc chiến đó là sự xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, một chế độ, một đất nước được quốc tế công nhận.
Thế nhưng, khác với những đồng đội của mình, đa số thiếu nhận thức và mù quáng đến mức không nhận ra sự thật hoặc có nhận ra sự thật nhưng cái hèn, cái ngu dốt, sự sợ hãi vẫn ngự trị nên chẳng bao giờ dám nói ra những sự thật mình chứng kiến trong đời sống xã hội.
Còn Trần Đức Thạch thì lại khác.
Là một người lính, từng được giáo dục, đào tạo thành chiến sĩ, sĩ quan quân đội với những bài học, những tư liệu mà qua đó, hình ảnh các chiến sĩ, đảng viên cộng sản được tô vẽ lung linh, mọi thứ dính đến họ đều đẹp đẽ, đều là đạo đức và văn minh.
Ngược lại cũng chính đảng giáo dục của ông rằng Mỹ, Ngụy” là những thế lực bẩn thỉu, tàn bạo và bất lương.
Thế nhưng, trong thực tế những điều ông thấy là trái ngược. Tác phẩm “Hố chôn người ám ảnh” của anh, là một tập tư liệu viết lên một sự thật hết sức tàn bạo khát máu và táng tận lương tâm của “Đội quân cách mạng”, “bộ đội cụ Hồ” đã làm không chỉ một người mà cả dân tộc giật mình khi sự thật bạo tàn được hé lộ.
Đó là cuộc tàn sát tập thể hàng trăm đồng bào mình bởi các “Chiến sĩ giải phóng”.
Thế rồi ông đã phải vào tù vì chính những nhận thức và dám nói ra những sự thật đó.
Hết vào tù, lại ra khỏi nhà tù nhỏ để sống trong một “nhà tù lớn”. Anh sống trong sự quấy rối, chèn ép, theo dõi, hành hạ và trả thù một cách đê tiện bằng nhiều biện pháp bỉ ổi của nhà cầm quyền.
Thế nhưng, anh vẫn không chấp nhận cúi đầu, không chấp nhận chịu nhục, vẫn đau đáu với vận mệnh non sông, đất nước, với cơ đồ mà cha ông đã hàng ngàn năm xây đắp, gìn giữ cho đến ngày nay đang hiện hữu một nguy cơ bị đám tay say đem bán cho giặc.
Bởi vì chính điều đó mà anh đã ra đi cầm súng, dám hy sinh cả tính mạng của mình với niềm tin rằng để gìn giữ non sông, để người dân được hòa bình, ấm no và hạnh phúc.
Và như vậy là anh đã “lật đổ chính quyền nhân dân”?
Vậy cái gọi là “Chính quyền nhân dân” ở đây là gì?
Là gì? Nếu không phải là sự dối trá, lừa bịp đối với mọi tầng lớp nhân dân mà ông là người đã ngộ ra trong thực tế.
Là gì? Nếu không phải là thế lực thờ phụng ngoại bang, nối giáo cho giặc cướp chiếm giang sơn, Tổ Quốc mà ông là người quyết tâm chống lại?
Là gì? Nếu không phải là thế lực đang đè đầu, cưỡi cổ nhân dân mà ông là người đấu tranh chống lại để người dân được sống, được tự do?
Hài hước thay, khi nhà cầm quyền CSVN bắt anh, qua hệ thống báo chí nhà nước, những cái gọi là “tang vật vụ án” được đưa ra trước công chúng là chiếc laptop từ đời thuở tám hoánh nào đó, chiếc điện thoại “cục gạch” và vài cuốn sách.
Người ta nghĩ rằng, một chính quyền tự xưng là đỉnh cao chói lọi, là bách chiến, bách thắng, là “của dân, do dân, vì dân” với đầy đủ mọi mỹ từ cao đẹp nhất là vinh quang, là chính nghĩa… và thường đem khoe khoang trước dân chúng những thiết bị hiện đại, những công cụ trấn áp tiên tiến nhất được mua sắm không tiếc tay bằng tiền dân. Thế nhưng lại có thể bị lật đổ bằng chiếc điện thoại cục gạch và chiếc máy tính hỏng bởi một ông già tuổi gần 70?
Trò trả thù hèn hạ
Qua những điều người ta thấy khi nhà cầm quyền CSVN đã biểu diễn trước dân chúng trong thời gian qua, đặc biệt là qua những vụ án này, người ta thấy rõ một điều: Sự trả thù hèn hạ.
Sở dĩ thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh đã bị trả thù, chỉ vì anh đã không chấp nhận cúi đầu, không biết “quay lưng lại với nỗi đau của đồng loại mà chăm lo cho bộ da của mình” – là cách sống của loài lang sói, theo định nghĩa của chính Các Mác, người đẻ ra cái tư tưởng Cộng sản.
Anh bị trả thù, chỉ vì đã biết hy sinh cho người khác, biết đau nỗi đau của những người dân nghèo hèn, thấp cổ bé họng.
Anh bị trả thù chỉ vì đã hướng dẫn cho con em biết đòi cho mình quyền sống.
Và điều đó làm tổn hại, làm lung lay cái ngai vàng của chế độ hiện nay.
Còn Trần Đức Thạch, ông bị trả thù, chỉ vì ông đã biết nhận thức được sự thật, biết tư duy bằng trí óc của con người, không chấp nhận im miệng, ngậm tăm chỉ để lo cho chính quyền lợi của mình mặc cho những oan ồn vất vưởng bị giết hại.
Ông bị trả thù, chỉ vì đã nói lên sự thật, đã lên án tội ác trời không dung, đất không tha của một chính quyền đã coi dân mình như cỏ rác, sẵn sàng giết hại tất cả nhằm phục vụ lợi ích của bản thân, gia đình, phe nhóm và đảng phái mình.
Ông bị trả thù, chỉ vì ông đã không chấp nhận làm tay sai ngoại bang, không đồng lòng với việc bán nước.
Những ngày cuối tháng tư, kỷ niệm 45 năm ngày cả miền Nam bị dìm trong biển máu và nước mắt, những hành động của nhà cầm quyền CSVN đối với dân mình chỉ nói lên một điều: Bản chất đê tiện và hèn hạ của người cộng sản không bao giờ thay đổi.
Ngày 28/4/2020
J.B Nguyễn Hữu Vinh

Thêm một bằng chứng “cõng rắn vào nhà”

Trong Công hàm mới nhất của Trung Quốc trình lên Liên Hợp Quốc ngày 17/4/2020 để khẳng định chủ quyền biển đảo của họ, ngoài việc nêu ra Công hàm do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, Trung Quốc còn dựa vào những chứng cứ khác để biện minh rằng Việt Nam cũng đã công nhận một cách rõ ràng chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa, nó “đã được phản ánh trong các tuyên bố và ghi chú của chính phủ Việt Nam, cũng như các bản đồsách giáo khoa và báo chí chính thức của Việt Nam” (trích Công hàm Trung Quốc ngày 17/4/2020).
Một trong những chứng cứ kể trên là “các bản đồ” do chính Việt Nam biên soạn, in ấn và xuất bản.
Mặc dù Công hàm mới nhất của Trung Quốc không trưng ra mà chỉ nhắc đến “các bản đồ“, nhưng trong văn kiện đầu tiên công bố ngày 30/1/1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đưa ra các tư liệu lịch sử, bản đồ v.v. để chứng minh “Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa” (tức là Trường sa và Hoàng Sa).
Toàn bộ văn kiện ngày 30/1/1980 được đăng trên tạp chí Beijing Review của Trung Quốc, số 7 ngày 18/2/1980, trong đó không những nói rõ về các bản đồ, mà còn đưa ra ảnh chụp. Trích nguyên văn như sau:
Bản dịch:
Các bản đồ và sách giáo khoa chính thức của Việt Nam đều thừa nhận rất rõ ràng hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Chẳng hạn, Bản đồ Thế giới được thực hiện năm 1960 bởi Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung và chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Tập bản đồ Thế giới được xuất bản tháng 5 năm 1972 bởi Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung (xem Phụ Lục 5)“.
(Xem ảnh Phụ Lục 5 ở đầu bài)
Chắc chắn Trung Quốc đã từ lâu nắm trong tay và cất kỹ bản gốc của các bản đồ này, khi cần có thể trưng ra như là một bằng chứng mà Việt Nam không thể chối cãi.
Một câu hỏi được đặt ra tại sao Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam lại làm ra một tấm bản đồ như vậy?
Không thể nào nói đó là do sơ suất hay nhầm lẫn vì không những ghi tên hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung Quốc, mà còn chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.
Tại sao Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng in tên hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tiếng Trung?
Theo tìm hiểu của tác giả, từ năm 1960 đã có ít nhất một người Trung Quốc làm việc trong Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam. Đó là một “chuyên gia do Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phái sang giúp Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“.
Như vậy rõ ràng Trung Quốc đã cài người trong Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng, trễ nhất là từ năm 1960. Chúng nằm sâu trong những cơ quan trọng yếu của quốc gia với nhiệm vụ ngụy tạo chứng cứ cho việc cướp đất và biển đảo. Đó là điều chúng đã tính toán từ trước.
Việc “cõng rắn vào nhà” như thế này. Ai là người chịu trách nhiệm?
Ngoài Trương Hồng Niên, người của Trung Quốc được cài cấm trong Cục đo đạc và bản đồ ra, liệu còn bao nhiêu người Trung Quốc đã được cài cấm trong các bộ ngành khác từ trước đến nay, nhất là Bộ Giáo dục (sách giáo khoa cũng bị Trung Quốc ngụy tạo dùng làm bằng chứng).
Hiện nay, tình báo Trung Quốc tại Việt Nam đã cài trong Quốc hội bao nhiêu người, Chính phủ bao nhiêu người và Bộ chính trị là bao nhiêu người?
Hiếu Bá Linh (Tổng hợp)

Nước oan

Khi nhà nước thu hồi đất, sẽ gửi quyết định thu hồi cho người có đất bị thu hồi. Sau đó là quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Nếu người có đất bị thu hồi không chấp nhận giá bồi thường, sẽ gửi đơn khiếu nại. Nếu giải quyết khiếu nại không thành công, nhà nước sẽ ban hành quyết định cưỡng chế. Dĩ nhiên sau đó là… Một lực lượng cưỡng chế đông như quân Nguyên kéo đến, và… tống cổ người bị cưỡng chế ra lề đường, trắng tay, ngủ bờ ngủ bụi xách bị gậy ăn mày, làm dân oan khiếu kiện dai dẳng hết năm này qua năm khác. Nhà nước là cơ quan ban hành quyết định cưỡng chế, kiện thì cũng chính nhà nước xử, nên việc dân oan khiếu kiện dai dẳng hàng chục năm, nhiều người khiếu kiện hai mươi năm hoặc hơn, Thủ Thiêm chẳng hạn, mà vẫn không được giải quyết thỏa đáng là không có gì khó hiểu, vì không lẽ tay phải xử tay trái? Hạn hữu cũng có vài vụ may mắn thắng kiện do cơ quan nhà nước cấp địa phương sai sót thủ tục. Còn hầu hết là khiếu kiện trong vô vọng.
Dĩ nhiên khi ban hành các quyết định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều căn cứ vào các điều luật, nghị định… hoặc các chứng cứ để chứng minh các quyết định đó đúng với pháp luật.
TC (cũng thế), họ cũng dựa vào các Công ước Quốc tế để diễn giải theo ý họ, và căn cứ pháp lý quan trọng nhất là Công hàm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, công nhận tuyên bố chủ quyền 12 hải lý về biển đảo của TC, trong đó có Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa), là căn cứ quan trọng nhất để TC xác định chủ quyền Tây Sa và Nam Sa. Vì ngoài công hàm đó, TC chẳng có miếng giấy lộn nào chứng minh sở hữu Tây Sa và Nam Sa.
Năm 1974, TC dùng lực lượng vũ trang đông như quân nguyên để “cưỡng chế thu hồi” Hoàng Sa. Khi ấy VNDCCH không phản ứng, chắc Hà Nội cho rằng Hoàng Sa thuộc VNCH nên không liên quan đến mình?
Năm 1988, TC “cưỡng chế thu hồi” 7 bãi đá trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam bó tay trước lực lượng “cưỡng chế” đông như quân nguyên của TC, trở thành NƯỚC OAN, nhưng chưa rõ vì sao không khiếu kiện. Nr đoán mò, chẳng có định chế pháp lý quốc tế nào có thể thay được chức năng của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, là cơ quan quốc tế duy nhất có quyền lực cưỡng hành. Nhưng trong cơ quan này, TC là ủy viên thường trực có quyền phủ quyết, nên khởi kiện đòi lại biển đảo do TC cướp, cũng chẳng khác gì dân oan đi khiếu kiện nhà nước trong vô vọng, vì tay phải ngu gì xử tay trái. Hơn nữa, có lẽ Việt Nam vẫn còn vướng công hàm 1958?
Và hiện tại, TC gửi công hàm cho Liên Hiệp Quốc, yêu cầu Việt Nam rút hết nhân sự và các cơ sở khỏi các đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà TC gọi ngang ngược là Việt Nam xâm phạm khu Nam Sa của họ.
Dĩ nhiên căn cứ pháp lý chính của TC vẫn là công hàm 1958.
Công hàm của TC yêu cầu Việt Nam rời khỏi Trường Sa, nội dung khác với các công bố chủ quyền trước đó. Công hàm lần này có nội dung từa tựa quyết định cưỡng chế thu hồi đất dân của Việt Nam.
Và nếu đây đúng là một công hàm mang tính cưỡng hành như một quyết định cưỡng chế, thì Trường Sa đang bị đe dọa. Dĩ nhiên nhà nước Việt Nam sẽ chống lại hành động cướp biển đảo của TC để bảo vệ chủ quyền. Song phía TC sẽ cho rằng Việt Nam chống lại người thi hành công vụ của họ.
Đối với dân oan Việt Nam, ai mà chống lại lực lượng cưỡng chế sẽ bị rủ tù vì tội chống người thi hành công vụ. Còn với NƯỚC OAN chống lại lực lượng “cưỡng chế thu hồi biển đảo” của TC sẽ là… Chiến tranh.
Tình hình Trường Sa đang phức tạp, căng thẳng, rất khó đoán. Đây là lúc lãnh đạo Việt Nam cần tỉnh táo và quyết đoán, đừng để thành NƯỚC OAN khiếu kiện TC lâu năm trong vô vọng./.