Friday, July 15, 2016

Thế chiến III: Mỹ chia nước Tàu ra từng mảnh để trị

Nguyễn Vĩnh Long Hồ (Danlambao) - Phán quyết PCA đặt Tập Cận Bình vào thế “trên đe dưới búa”, một sự lựa chọn khó khăn là: Nếu xem thường “luật pháp quốc tế”, tẩy chay phán quyết của Tòa Trọng tài PCA ngày 12/7/2016 bác bỏ yêu sách chủ quyền của TC ở Biển Đông. Họ Tập phải chấp nhận xung đột với Hải quân Mỹ + đồng minh Nhật, Ấn, Australia và khối ASEAN và cả thế giới nói chung. Còn nếu nhượng bộ Mỹ & đồng minh và ASEAN, họ Tập sẽ phải chịu áp lực từ dư luận và phong trào chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong nước...

Washington đang tìm cách tạo cớ, gây chiến tranh Thế chiến III với Bắc Kinh trên Biển Đông để xé Tàu Cộng ra nhiều nước nhỏ để trị. Liệu Tập Cận Bình ngạo mạn có thoát được cái “bẩy chiến lược” do Mỹ giăng ra trên Biển Đông?...

*

Siêu cường là quốc gia thế nào?

Thuật ngữ siêu cường là một quốc gia đứng hàng thứ nhất trong hệ thống quốc tế và khả năng gây hưởng tới những sự kiện và phô trương sức mạnh trên phạm vi toàn thế giới; siêu cường thường được coi có mức quyền lực cao hơn cường quốc. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên năm 1943 để chỉ Liên bang Xô Viết cùng Hoa Kỳ được coi là 2 siêu cường trong cuộc “chiến tranh lạnh”. Những đặc điểm của một siêu cường:

[1] Quân sự: Khả năng thể hiện sức mạnh trên thế giới. Trên thế giới hiện đại, điều nầy đòi hỏi không chỉ một lực lượng quân sự mạnh mà còn có khả năng lập cầu không vận nhanh chóng bằng đường biển, đường không để triển khai lực lượng quân sự và cung cấp tiếp liệu cho lực lượng quân sự đó, nhằm tăng cường lợi ích quốc gia cũng như được sự ủng hộ của dân chúng cho hành động đó.

[2] Văn hóa: Ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ, “quyền lực mềm”. Ảnh hưởng văn hóa ngụ ý một lĩnh vực triết học. âm nhạc, điện ảnh và ý thức hệ phát triển.

[3] Địa lý: diện tích lãnh thổ hay biển thuộc quyền kiểm soát của họ. Lãnh thổ cho phép một quốc gia khai thác tài nguyên và trồng cây nông nghiệp, tăng khả năng tự cung cấp. Đây là yêu tố quan trọng trong chiến tranh, bởi nó cho phép các khả năng như rút lui, tái hợp và tái tổ chức, cũng như đặt các trạm radar và bệ phóng tên lửa tầm xa, thậm chí một nước giàu nhưng có lãnh thổ nhỏ cũng dễ bị tổn thương hơn trong chiến tranh.

Hoa Kỳ: Được thế giới đánh giá là quốc gia có chủ quyền duy nhất, đạt đủ các yếu tố trở thành một siêu cường, nhờ vào các yếu tố sau đây:

- Địa lý: Hoa Kỳ là nước lớn thứ 3 thế giới theo diện tích lục địa sau Nga và Canada.

- Dân số: Với 313 triệu dân, chiếm khoảng 5% dân số thế giới, Hoa Kỳ là nước đông dân thứ ba. Nước này có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao nhất trong các nước phát triển. Theo LHQ, Hoa Kỳ có chỉ số phát triển con người đứng hàng thứ 4 thế giới.

- Chính trị: Hoa Kỳ có nền chính trị “Dân chủ Cộng hòa” ổn định, đóng góp khoảng 22% ngân sách LHQ và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An LHQ với quyền phủ quyết. Lập trường của Hoa Kỳ về các vấn đề quốc tế thường được các quốc gia trên thế giới ủng hộ, đặc biệt như: Anh, Canada, Australia, Đức, Nhật, Ấn, Hàn, Israel…

- Quân sự: Hoa Kỳ có mức chi tiêu quân sự lớn hơn cả 12 nước đứng tiếp sau họ cộng lại. Năm 2006, họ sở hữu kho vũ khí hạt nhân lớn thứ 2 thế giới và một số hệ thống vũ khí kỹ thuật tân tiến nhất hiện nay cùng khoản chi tiêu lớn cho phép triển khai quân đội tới bất kỳ địa điểm nào trên thế giới, đó là hệ thống HKMH của Hải quân Hoa Kỳ. 

Hải quân Mỹ đang vận hành 13 chiếc tàu có thể được gọi là HKMH, nhưng chỉ gọi 11 chiếc là HKMH thực sự. Theo tạp chí The Diplomat, Hải quân Mỹ đưa vào biên chế tàu tấn công đổ bộ hạng nhất USS America và tàu cùng loại tên USS Tripoli. Khi hoạt động, USS America và USS Tripoli sẽ có tới 20 chiếc chiến đấu cơ tàng hình cất cánh thằng đứng F-35B và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ưu thế trên không của hải quân Mỹ (USS America có kích thước và tầm cỡ tàu sân bay Charles De Gaulle của Pháp và INS Vikramaditya của Ấn Độ).

Ngoài ra siêu hạm USS Zumwalt sẽ được biên chế Hải quân Mỹ trong năm 2016 theo kế hoạch. Khiến Bắc Kinh không vui.

- Văn hóa: Văn hóa Mỹ có có tầm ảnh hưởng trên khắp thế giới, đặc biệt ở những vùng nói tiếng Anh như âm nhạc, điện ảnh, thể thao...

- Kinh tế & tài chính: Hoa Kỳ sở hữu nền kinh tế quốc gia lớn nhất thế giới với trị giá 15 ngàn tỷ USD. Hoa Kỳ chiếm 21% GDP của thế giới. Nước này thường có mức độ tăng trưởng kinh tế từ mức trung bình tới cao. Trong 20 năm qua, mức tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ trung bình chỉ hơn 3% mỗi năm.

Hoa Kỳ có mức GDP trên đầu người lớn hơn bất kỳ một siêu cường đang nổi lên và cao hơn hầu hết các nước công nghiệp phát triển khác, ở mức khoảng 48.000 USD/ năm.

Hoa Kỳ là nơi đóng trụ sở của tập đoàn quốc tế và các định chế tài chính. Các công ty Mỹ giữ vai trò hàng đầu trong nhiều lĩnh vực như vật liệu mới, điện tử và viễn thông, công nghệ thông tin, vũ trụ, năng lượng, công nghệ sinh học, dược phẩm, tin học sinh học (bioinformatics), cơ khí hóa chất (chemical engineering) và phần mềm. Nước này là nhà sản xuất hàng đầu về hàng hóa tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp, dù phải phụ thuộc vào dầu mỏ nhập cảng.

Hoa Kỳ có ảnh hưởng mang tính quyết định với các định chế tài chánh quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới; đồng dollar Mỹ là đồng tiền tệ dự trữ và trao đổi quan trọng nhất trên thế giới.

Ngày 17/6/2016, TT Putin phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại St. Petersburg: “Mỹ là một cường quốc mạnh, có thể ngày nay là “siêu cường duy nhất”. Chúng tôi chấp nhận điều đó và sẵn sàng làm việc với Mỹ”. 

Tàu cộng:

Tàu Cộng thường được coi là một siêu cường đang nổi lên. Chưa cần tính số liệu kinh tế của Hồng Kông và Macao, Đại Lục hiện là nền kinh tế đứng thứ nhất thế giới và hiện được coi là một siêu cường đang nổi lên nhờ dân số đông đảo và mức độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh với tỷ lệ bình quân hàng năm là 6.9%. Sở hữu các lực lượng vũ trang lớn nhất thế giới, Tàu Cộng hiện là một trong 5 thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An LHQ.

“Giấc Mơ Trung Hoa”: Tham vọng đế quốc của Tập Cận Bình

Từ khi nắm quyền lãnh đạo ĐCSTQ hồi tháng 11/2012, các tham vọng vĩ đại của họ Tập đã trở nên nổi tiếng. Trong nước, họ Tập đã thúc đẩy mục tiêu lớn mà họ Tập gọi là “Trung Quốc mộng”: “Đại phục hưng dân tộc Trung Hoa”. Họ Tập gây ngạc nhiên cho hầu hết giới quan sát bởi tốc độ và hiệu quả trong việc củng cố quyền lực trong ĐCSTQ và QĐNDTQ. Giờ đây, Tập Cận Bình được coi là nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Đại Lục sau Đặng Tiểu Bình, nếu không nói là sau Mao Trạch Đông.

Hai cột trụ chính của chính sách đối ngoại quyết đoán của họ Tập, gồm sự chủ động về mặt an ninh, chủ yếu trong lĩnh vực hàng hải và ngoại giao kinh tế qua cái gọi là chính sách “một vành đai, một con đường” (Nhất đới nhất lộ). Điều nầy cho thấy họ Tập không hài lòng với việc biến TC thành một cường quốc khu vực mà xa hơn, hắn ta còn muốn biến TC thành một thế lực hàng đầu và thậm chí chi phối các vùng trọng yếu của châu Á-TBD. Quả thật, là một người thích tìm hiểu lịch sử, họ Tập đang cố khôi phục vai trò TC trong hệ thống Đông Á đương đại ở tầm cao lịch sử như trong thời đại “Đế chế Trung Hoa (221 TCN - 1911).

Liệu TC của họ Tập có sẵn sàng giành lại vinh quang của tiên đế? Chúng ta có thể so sánh TC hôm nay với TQ sơ kỳ Minh Triều (1368-1424) vốn thủ đắc bá quyền một phần khu vực Đông Á. Về GDP, vị thế kinh tế của TQ triều Minh thời điểm đỉnh cao quyền lực mạnh hơn so với Mỹ hiện nay. Nhưng quyền bá chủ không chỉ liên quan đến vật lực mà đó sự kết hợp giữa tính vượt trội về vật lực và tính chính đáng xã hội, khả năng kiểm soát các kết quả quốc tế quan trọng và một mức độ ưng thuận và chấp nhận nhất định từ các quốc gia khác trong hệ thống.

Các lân bang của TQ sơ kỳ Minh Triều có 4 chiến lược chính trong phản ứng và ứng xử với triều Minh. Phân hạng theo mức độ hợp tác từ cao xuống thấp, bốn chiến lược đó là:

- Gắn chặt (identification).
- Thần phục (deference)
- Tiếp cận (access)
- Thoát ly (exit)

Hầu hết các lân bang của Tàu triều Minh thuận theo chiến lược thần phục, nhưng không nhất thiết phải chấp nhận tính chính đáng của hệ thống quan hệ quốc tế theo thứ bậc của Đế quốc Trung Hoa được biểu hiện qua sự triều cống.

Trong lịch sử, TQ được coi là một thế lực hiếu chiến, chủ nghĩa bành trướng của họ thể hiện qua các hoạt động quân sự và các chính sách ngoại giao là một nỗi lo ngại đáng kể của các nước lân cận. Bản chất của người Tàu cho ta thấy sự tự cao của họ, nước của họ là trung tâm quyền lực của thế giới loài người, nên đặt tên nước của họ là Trung Hoa là cái rốn của vũ trụ.

Trong thời kỳ XHCN, đối với các nước cùng một ý thức hệ như VN và Bắc Hàn cái nhìn kiểu mới về quan hệ “bá chủ - chư hầu” của TC là nền tảng của nền ngoại giao TC sau khi ĐCSTQ nắm chính quyền, đặc biệt trong quan hệ Việt-Trung. Thân phận chư hầu được Bắc Kinh dùng để đổi chác trên lưng dân tộc VN mang tính chiến lược với Mỹ.

Phát biểu tại buổi lễ Kỷ Niệm 95 năm ngày thành lập ĐCSTQ, Tập Cận Bình thẳng thắn tuyên bố (che giấu tham vọng): “TQ không hề muốn bá chủ thế giới, nhưng sẽ không bao giờ chịu khuất phục trước mối đe dọa của bất kỳ lực lượng quân sự nào”. Tuyên bố của họ Tập được đưa ra ngay trước thềm phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực về vụ kiện tranh chấp tại Biển Đông với Philippines vào ngày 12/7/2016.

“Hành động dằn mặt như vậy không phản ảnh sức mạnh thực sự và sẽ không thể ngăn chận bất kỳ ai”, họ Tập ám chỉ vào việc Mỹ điều tàu chiến tuần tra tại Biển Đông. Về phía các quốc gia láng giềng tại ven Biển Đông. Bắc Kinh đã ngang ngược tuyên bố chủ quyền ở hầu hết diện tích 80% Biển Đông, chồng chéo lên chủ quyền của Indonesia, Philippines, Brunei, Malaysia và Việt Nam. Bắc Kinh cũng đã ngang ngược đẩy mạnh xây dựng phi pháp các cơ sở quân sự tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Thế Chiến Thứ III: Mỹ chia Tàu Cộng ra từng nước nhỏ để trị:

Lịch sử thế giới chứng minh Hoa Kỳ đã đấu tranh quyết liệt để giữ vững vị trí siêu cường số 1 thế giới qua 2 cuộc thế chiến thứ I & II:

[1] Thế Chiến I:

Diễn ra từ tháng 6//1914 đến tháng 11/1918 là một cuộc chiến tranh quyết liệt, quy mô to lớn thứ nhì trong lịch sử nhân loại về quy mô và sự khốc liệt của nó, chỉ đứng sau thế chiến II. Cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và Bắc Mỹ vào vòng chiến với số người chết trên 19 triệu người.

Đây là cuộc chiến giữa phe Hiệp Ước (Anh, Pháp, Nga và Hoa Kỳ) và phe Liên Minh (Đức, Áo, Hung, Bulgaria và Ottoman). Cuộc đại chiến mở đầu với sự kiện Hoàng tử Áo - Hung bị ám sát, dẫn đến Áo - Hung tuyên chiến với Serbia. Sự kiện nầy được tiếp nối bởi việc Hoàng đế Đức là Wihelm II truyền lệnh cho các tướng xua quân tấn công Bỉ, Luxembourg và Pháp theo kế hoạch Schlieffen. Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra mặt trận, trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong cuộc chiến tranh lớn thứ hai trong lịch sử. Thế chiến I, nước Anh suy yếu từ cường quốc thứ 2 thế giới, nhường ngôi cho Nga đứng nhì thế giới.

[2] Thế Chiến II:

Diễn ra từ 1/9/1939 - tháng 2/9/1945 giữa các lực lượng Đồng Minh và phe Trục theo chủ nghĩa Phát Xít. Hầu hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh nầy. Cho tới nay, nó là cuộc chiến quy mô rộng lớn và thiệt hại nhất trong lịch sử nhân loại.

Các nguyên nhân cuộc chiến trong đó có Hòa ước Versailles, đại khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt. Một số người cho rằng, đó là khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 1/9/1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7/7/1937, còn một số khác thì tính vào Nhật Bản xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng 2 cuộc thế chiến thực ra chỉ là một và được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.

Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Phi, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương và phần lớn của Đông Á và Đông Nam Á. Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8/5/1945, nhưng vẫn tiếp tục tại châu Á cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 2/9/1945. 

Thế chiến II là một cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị đánh bom hàng loạt. Khoảng 70 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này, kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc Xã (Holocaust). 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. Thiệt hại nặng nhất là Liên Xô với 23 tới 27 triệu người chết. Kết quả, sau Thế chiến II Liên Xô suy yếu dần chỉ còn là cường quốc.

Năm 1991, Hoa Kỳ đánh Liên Xô, đệ nhị siêu cường vỡ ra từng mảnh. Lần đầu tiên, Hoa Kỳ triệt hạ một đệ nhị siêu cường mà không cần dùng đến hành động quân sự, như Tổng thống Kennedy tuyên bố: “Muốn diệt Cộng sản, không cần tốn một viên đạn. Mỹ dùng “chiến tranh Kinh tế” để tiêu diệt LX vỡ ra từng mảnh”.Nga nhường ngôi đệ nhị cường quốc cho Tàu Cộng.

[3] Thế chiến III: tại sao Mỹ phải đánh Tàu cộng vỡ ra từng mảnh trước năm 2020?

Theo các nhà phân tích: Tới năm 2020 nếu TC vẫn duy trì được đà phát triển như hiện nay, GDP của TC sẽ vượt mặt Mỹ và trở thành đệ nhất cường quốc thế giới thì Hoa Kỳ sẽ trở thành quốc gia hạng nhì sau Tàu Cộng. Tiếng nói của cường quốc hạng nhì sẽ không còn trọng lượng, trở thành lạc lõng giữa các cộng đồng quốc tế, chẳng còn ai muốn lắng nghe. Vì vậy, Mỹ phải đánh TC vỡ ra từng mảnh từ đây đến năm 2020 trước khi quá muộn.

Mấy ngàn năm về trước, chính trị của Hàn Phi Tử khả dĩ thu vào 2 điểm chủ yếu:

- Đối ngoại không gì hơn “thực lực”.
- Đối nội không gì hơn “quyền lực”.

Quan hệ giữa nước nầy với nước kia nếu không có thực lực thì lấy gì phát triển và tồn tại. Việc trong nước mà không có quyền lực lấy gì thống trị thì làm sao thay đổi cả đường lối sinh hoạt của nhân dân. Bởi vậy, ông phán một lời tuy ngắn ngủi nhưng rất minh bạch đã trải qua mấy ngàn, đến nay vẫn còn giá trị: “Lực đa tắc nhân triều, lực thiểu tắc triều ư nhân cố minh quân vụ lực” (Lực khỏe thì thiên hạ theo ta, lực yếu thì ta buộc phải phục tùng thiên hạ, cho nên một ông vua giỏi là phải kiến thiết lực mạnh).

Theo William C. Wohlforth - GS ĐH Dartmouth & Stephen G. Brooks Phó GS - Đánh giá nước Mỹ trong cuốn sách: “Nước Mỹ ngoài biên giới: Vai trò toàn cầu của Hoa Kỳ trong thế kỷ XXI” (Oxford University Press, 2016). Tóm tắt những điểm chính:

Sau hai thập kỷ rưỡi, vị trí siêu cường duy nhất trên thế giới của Hoa Kỳ sắp kết thúc?” Nhiều người đồng ý vì họ nhìn thấy một TC đang tăng trưởng nhanh và sẵn sàng bắt kịp hoặc thậm chí vượt Mỹ trong tương lai gần. Bằng nhiều thước đo, nền kinh tế của TC được nhận định là đang trên đường trở thành lớn nhất thế giới và ngay cả khi tăng trưởng chậm lại, nó vẫn sẽ vượt qua nền kinh tế Hoa Kỳ trong nhiều năm. Kho bạc của nước này đầy ắp tiền bạc, Bắc Kinh sử dụng sự giàu có mới của mình để thu hút bạn bè, ngăn chận kẻ thù, hiện đại hóa quân đội của mình và khẳng định tuyên bố chủ quyền ở ngoại vi của quốc gia này. Do đó, đối với nhiều người, vấn đề không phải là liệu TC sẽ trở thành một siêu cường hay không, mà chỉ là thời điểm nhanh hay chậm.

Nhưng đây là suy nghĩ mơ mộng hay sợ hãi. Tăng trưởng kinh tế không còn được chuyển hóa trực tiếp vào sức mạnh quân sự như nó đã làm trong quá khứ, điều đó có nghĩa rằng bây giờ khó khăn hơn bao giờ hết cho những quyền lực mới nổi và có khả năng những quyền lực đã bị suy giảm và TC là nước duy nhất có khả năng để trở thành một đối thủ toàn cầu thực sự của Hoa Kỳ. Nhưng, TC còn phải đối mặt với thách thức khó khăn hơn các quốc gia tăng trưởng trước đó vì TC bị tụt hậu khá xa về công nghệ. Mặc dù sự thống trị kinh tế của Hoa Kỳ đã bị suy giảm từ đỉnh điểm, ưu thế quân sự tuyệt đối của nước nầy không vì thế mà suy giảm.Thay vì chờ đợi một sự chuyển đổi quyền lực trong bàn cờ chính trị quốc tế, mọi người nên bắt đầu làm quen với một thế giới trong đó Hoa Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất trong nhiều thập kỷ tới. 

Trong dự báo về vị trí quyền lực trong tương lai của Tàu Cộng, nhiều thách thức của quốc gia này đã được nhắc đến: nền kinh tế chậm lại, môi trường ô nhiễm, tham nhũng tràn lan, thị trường tài chánh đầy nguy hiểm, không tồn tại mạng lưới an sinh xã hội, nhanh chóng lão hóa dân số và tầng lớp trung lưu bất ổn. Gót chân Achilles thực sự của TC trên sân khấu chính trị thế giới: công nghệ lạc hậu so với Hoa Kỳ. So với các thế lực đang lên trước đây, TC tụt hậu công nghệ với Mỹ lớn hơn... 

Một chỉ số nữa về khoảng cách công nghệ là số bằng sáng chế ghi danh tại Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản. Trong năm 2012, gần 14.000 bằng sáng chế có nguồn gốc ở Hoa Kỳ, so với dưới 2.000 ở Tàu Cộng. Theo National Science Foundation cho thấy, tình trạng tương tự về giải Nobel về Vật lý, Hóa học và Sinh lý học và Y học. Kể từ năm 1990, 114 giải đã được trao cho các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, trong khi TC chỉ nhận được có 02. Có một điều, sự tàn phá môi trường ghê gớm ở Hoa Lục vì ưu tiên tăng trưởng GDP...”

Hoa Kỳ phải tấn công & triệt hạ Tàu cộng bằng mọi giá:

Về kinh tế: 

Theo Ruchir Sharma, tác giả bài viết “How China Fell Off the Miracle Path” (Phép mầu kinh tế China đang chấm dứt thế nào?” được The New York Times đăng, số ra ngày 03/6/2016. Xin tóm tắt những điểm chính:

- Những tác động chính đã định hình sự hưng thịnh và suy vong của các quốc gia kể từ sau cuộc khủng khoảng tài chánh năm 2008 và không có điều nào có lợi cho TC.

- Nợ đã tăng nhanh đến mức báo động ở các nước đang trỗi dậy, đặc biệt là TC. Tăng trưởng thương mại đã sụp đổ ở mọi nơi, một đòn đau với những nước xuất cảng hàng đầu, lại tiếp tục dẫn dắt bởi TC. Nhiều nước đã quay về đường lối cai trị chuyên chế trong một nỗ lực nhằm chống lại cuộc suy thoái toàn cầu và không ai làm đến mức tự hủy hoại chính mình như TC. Và vì những lý do không liên quan đến cuộc sụp đổ năm 2008, mức tăng trưởng nhân lực trong độ tuổi lao động đang chậm dần và thậm chí ở mức âm ở TC làm hao mòn nguồn nhân lực. 

- Tăng trưởng ở mức 6% một năm là một điều rất khó khăn đối với bất kỳ một quốc gia nào. Trong nỗ lực vượt qua mục tiêu đó, TC đã bơm những khoản nợ vào những dự án lãng phí và đang tự đào cho mình một cái hố sâu tự chôn mình. Nền kinh tế giờ đang chậm lại và sẽ còn giảm tốc hơn nữa khi TC buộc phải giảm gánh nặng nợ và thậm chí là một cuộc khủng hoảng kinh tế, điều này sẽ đem đến những hệ quả toàn cầu bởi vì sự kích thích kinh tế đã biến nền kinh tế lớn thứ hai thế giới thành một gã khổng lồ bị bơm căng quá mức.

- Ở Bắc Kinh, sự tự tin đã lùi bước nhường chỗ cho những lo âu. Người dân địa phương thường nhận biết được rắc rối nhanh hơn các nhà đầu tư nước ngoài và sẽ là những người đầu tiên tháo chạy trước một cuộc khủng khoảng. Người TQ đã chuyển ra khỏi đất nước một số tiền kỷ lục ở mức 675 tỷ USD vào năm 2015 và một phần là để mua bất động sản ở nước ngoài, người dân Hoa Lục đổ xô mua những căn hộ siêu sang ở New York hay San Francisco. Bắc Kinh đang cố gắng một cách khó khăn để giữ đồng NDT đang dần suy yếu khỏi lao dốc thêm do đồng tiền mất giá sẽ làm người dân TQ càng mất tự tin và làm gia tăng nguy cơ khủng khoảng.

- Cơn sốt nợ của TC hiện đang ở mức lớn nhất trong các quốc gia mới trỗi dậy từ sau Thế chiến II. Sau khi giữ vững ở mức 150% GDP trong phần lớn giai đoạn tăng trưởng, nợ công và tư bắt đầu tăng từ khi Ôn Gia Bảo đổi hướng vào năm 2008, chạm mức 230% GDP vào năm 2014. Mức tăng 80% vượt mức tăng của Mỹ trước khi bong bóng vỡ vào năm 2008 gấp 3 lần. Kể từ đó, tỷ lệ của Mỹ trên GDP đã đứng vững. Cho dù nhiều người Mỹ vẫn nghĩ rằng đất nước họ vẫn bị nhấn chìm trong nợ nần, gánh nặng của Mỹ không đáng lo như của TC bởi vì nó ngừng tăng.

- Tổng số mức vốn ngoại rút khỏi nước nầy từ đầu năm đến tháng 11/2015 đã lên đến 669 tỷ USD. Bắc Kinh đã phát tín hiệu cho thấy, không để lượng vốn ròng kỷ lục rút khỏi nước nầy trong năm 2015 cản trở các cải cách thị trường vốn, theo hãng tin Bloomberg. Giới đầu tư đã rút 194 tỷ USD khỏi TC trong tháng 9, nâng tổng mức vốn rút khỏi nước nầy lên đến 669 tỷ USD.

- IIF cho biết, con số thoái vốn trong năm 2016 này giảm 1/5 so với khoản rút vốn 674 tỷ USD trong năm 2016, nhưng có khả năng sẽ tăng mạnh nếu xuất hiện những lo ngại về đồng NDT mất giá. Báo cáo IIF cho biết, sự suy giảm mạnh mẽ của đồng NDT có thể sẽ châm ngòi cho một cuộc tháo chạy vốn khổng lồ khỏi thị trường Hoa Lục. Mức dự trữ ngoại hối của TC đang giảm nhanh từ 4.000 tỷ USDtừ tháng 6/2014 xuống chỉ còn 3.200 tỷ USD vào tháng 2/2016.

Về quân sự:

Nếu dùng chiêu “kinh tế” mà đánh chưa sập được Tàu Cộng, thì bắt buộc Mỹ phải dùng chiêu cuối cùng là dùng sức mạnh “quân sự” chia nước Tàu vỡ ra thành nhiều nước nhỏ để cai trị. Triệt hạ được nước Tàu, Hoa Kỳ sẽ giữ vững vị trí siêu cường một thế kỷ nữa mà cũng có thể siêu cường cuối cùng duy nhất trên hành tinh này.

Theo Phó giáo sư Stephen Brooks - Học viện Dartmouth (Mỹ) - nhận định: “Vấn đề căn bản có liên quan đến tư duy chiến lược tổng thể đối với Tàu Cộng, trước hết Washington không nên quá lo ngại sự trỗi dậy của TC,” ông nói. “TC đang “trỗi dậy”, nhưng hoàn toàn không phải “đứng dậy”. Về kinh tế, Mỹ hoàn toàn không suy yếu. Chúng tôi cho rằng, trong vài chục năm nữa, Mỹ sẽ vẫn là siêu cường duy nhất. Trong khi đó, TC trỗi dậy sẽ chậm hơn nhiều so với các nước từng trỗi dậy trong lịch sử, chẳng hạn như Đức và Anh. Bởi vì, những nước này có thể sánh ngang với các nước lớn khi đó về khoa học công nghệ. TC hiện cơ bản không đuổi kịp Mỹ về khoa học công nghiệp.”

Theo Stephen Brooks đánh giá, thực lực kinh tế và khoa học công nghệ của Mỹ đủ để chống lại sự bành trướng của TC trong khu vực và ra bên ngoài thế giới, ngăn chận các sự kiện lớn xảy ra có thể làm lung lay vị thế siêu cường của Mỹ.

Ngày 05/7/2016, một tờ báo chính thống của TC cho biết Bắc Kinh cần sẵn sàng “đối đầu quân sự” với Washington ở Biển Đông. Phán quyết của Tòa Án Trọng Tài PCA về tranh chấp ở Biển Đông sắp được đưa ra và quân đội TC cũng bắt đầu tập trận ở vùng này.

Trang tin tức bình luận TC ngày 11/5/2016 vừa có bài viết nhận định rằng, hiện nay Mỹ đang triển khai “4 cuộc chiến” để đáp trả yêu sách bành trướng của TC ở Biển Đông và Hoa Đông. Theo tờ báo Hồng Kông, 3 chiến tuyến gồm:

- Cuộc chiến tấn công dư luận.
- Cuộc chiến răn đe quân sự.
- Cuộc chiến liên minh, liên kết.

Theo nhận định của giới quan sát, 3 cuộc chiến chưa có tiếng súng này chắc chắn sẽ khiến TC phải đối phó rất căng thẳng. Tin tức bình luận TC cho biết, trong lúc phán xét của Tòa Trọng Tài Thường trực ở The Hague sắp đến gần, cuộc đấu giữa các bên xung quanh tranh chấp Biển Đông sẽ ngày càng quyết liệt hơn.

Giới quan sát nhận định rằng, Mỹ sẽ dựa vào kết quả trọng tài để tạo ra một cuộc tấn công dư luận mạnh mẽ, mục tiêu là để chỉ rõ Bắc Kinh không tuân thủ các quy tắc luật pháp quốc tế. Chỉ chờ đến khi có kết quả trọng tài chính thức được công bố, Mỹ đã có đầy đủ lý do để sử dụng cho cuộc tấn công dư luận, nhằm bao vây cô lập Bắc Kinh.

Lực lượng Hải quân Mỹ sẽ tiếp tục có đầy đủ lý do để tiến hành tuần tra Biển Đông, tổ chức diễn tập quân sự liên kết bởi Washington nắm được con bài tẩy của Bắc Kinh chỉ dám ức hiếp, đe dọa các nước nhỏ như: Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei và VN, còn dùng vũ lực đối đầu với Mỹ trong cuộc xung đột, đồng nghĩa với “tự sát”. Chắc chắn đây cơ hội tốt cho các khu tự trị như Tân Cương, Nội Mông, Tây Tạng nổi dậy đấu tranh đòi “Độc lập - Tự do” cho dân tộc của họ. Tàu Cộng sẽ lâm vào thế “thù trong giặc ngoài”.

Theo Gwynne Dyer - một nhà báo độc lập - ngày 7/7/2016, bình luận trên tờ Bangkok Post: “Một cuộc đối đầu có kiểm soát nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, Bắc Kinh có thể nổ ra trên Biển Đông với Mỹ và các đồng minh như Ấn, Nhật, Australia, Nam Hàn và ASEAN, có thể là sự lựa chọn “điên rồ” nhằm kích động “chủ nghĩa cực đoan” trong nước và tạo ra sự ủng hộ cho bộ máy cầm quyền. Nhưng, một khi dấn thân vào con đường xung đột đối đầu với Mỹ và đồng minh, Tập Cận Bình sẽ đưa Hoa Lục đi về đầu?”

Jerry Hendrix, một nhà phân tích từ Trung tâm An Ninh của Mỹ, cho biết: Sự hiện diện của các HKMH và tàu chiến của Hải quân Mỹ là nhằm bảo vệ Biển Đông trong thời điểm nhạy cảm, đồng thời cũng nằm trong kế hoạch hiện diện lâu dài của quân đội Mỹ ở Biển Đông. Nhất định Washington sẽ không để Tập Cận Bình côn đồ, hiếu chiến tự tung tự tác trước và sau khi PCA ra phán quyết.

Kết quả phán quyết của PCA:

Ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đã ra phán quyết trong vụ Philippines kiện Bắc Kinh, áp dụng sai, giải thích sai, vi phạm UNCLOS 1982 ở Biển Đông. Trước đó, Bắc Kinh tập trận, điều động lực lượng vũ trang ồ ạt xuống Biển Đông diễn võ dương oai... Hải quân TC đã bắt đầu cuộc tập trận từ ngày 5/7/2016 và dự kiến kéo dài đến ngày 11/7/2016 từ phía Đông đảo Hải Nam đến khu vực quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của VN để chuẩn bị ứng phó trước phán quyết của tòa PCA.

Sự kiện Tòa Trọng tài Thường trực La Haye LHQ (PCA) bác bỏ những tuyên bố chủ quyền của TC trên Biển Đông, nói rằng nước nầy không có “chủ quyền dựa trên yếu tố lịch sử” tại vùng Biển Đông. Cái gọi là “đường lưỡi bò 9 đoạn” đi ngược lại với Công ước Quốc tế về Luật Biển, ấn định ranh giới của một nước trong phạm vi 12 hải lý từ bờ biển của nước nầy, đồng thời được đặc quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế trong phạm vi 200 hải lý tính từ bờ biển của nước đó và rằng các hoạt động bồi đắp, xây đảo nhân tạo của Bắc kinh trong thời gian gần đây làm tổn hại nghiêm trọng đến môi trường bãi san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường sinh thái biển.

Phản ứng của Bắc Kinh sau phán quyêt của PCA:

[1] Tẩy chay các thủ tụng tại Tòa, nói rằng Tòa Trọng tài Quốc tế không có quyền tài phán trong cuộc tranh chấp, đồng thời nhấn mạnh, họ sẽ không chấp nhận, công nhận hoặc thực thi bất cứ phán quyết nào về Biển Đông, bất chấp họ đã ký tên Công ước LHQ về Luật biển cùng với Philippines.

[2] Hãng tin Xinhua của TC nói rằng: “Tòa án La Haye lạm dụng pháp luật” đã công bố một phán quyết không có sơ sở vững chắc”. Bắc Kinh sẽ lựa chọn 3 phương án để thách thức phán quyết của Tòa án La Haye:

- Tiếp tục các hành động bành trướng hiện tại trên Biển Đông.

- Tuyên bố một khu nhận dạng phòng không - ADIZ trên Biển Đông.

- Lựa chọn mục tiêu thứ 3 là “bất hợp tác” hay trở thành một nước “bất hảo”, có nghĩa là Tập Cận Bình có thể càng gia tăng thêm áp lực trong khu vực.

[3] Phụ họa có Tướng hiếu chiến La Viện (về hưu) lập lại cái gọi là Bắc Kinh có quyền áp đặt vùng nhận diện phòng không ADIZ trên Biển Đông như đã thiết lập ở Hoa Đông và Mỹ không thể can thiệp. La Viện ngạo mạn, đặt câu hỏi: “Mỹ có thể phá hủy hệ thống vũ khí tự vệ mà TC triển khai trên các đảo nhân tạo hay không?” Hắn tự tin kết luận. “Mỹ không thể trục TQ khỏi Biển Đông”.

Kết luận:

Phán quyết PCA đặt Tập Cận Bình vào thế “trên đe dưới búa”, một sự lựa chọn khó khăn là: Nếu xem thường “luật pháp quốc tế”, tẩy chay phán quyết của Tòa Trọng tài PCA ngày 12/7/2016 bác bỏ yêu sách chủ quyền của TC ở Biển Đông. Họ Tập phải chấp nhận xung đột với Hải quân Mỹ + đồng minh Nhật, Ấn, Australia và khối ASEAN và cả thế giới nói chung. Còn nếu nhượng bộ Mỹ & đồng minh và ASEAN, họ Tập sẽ phải chịu áp lực từ dư luận và phong trào chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong nước.

Theo Gao Cheng, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Châu Á - TBD (TQ) nói: “Nếu TQ chỉ tiếp tục dùng lời nói mà không có hành động cụ thể, không gây áp lực được với Philippines thì làm sao Bắc Kinh có thể ngăn các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền chồng lấn ở Biển Đông theo phương pháp của Philippines đã kiện TQ?”.

Washington đang tìm cách tạo cớ, gây chiến tranh Thế chiến III với Bắc Kinh trên Biển Đông để xé Tàu Cộng ra nhiều nước nhỏ để trị. Liệu Tập Cận Bình ngạo mạn có thoát được cái “bẩy chiến lược” do Mỹ giăng ra trên Biển Đông? Xin hãy chờ xem!!! 

Tổng hợp & nhận định:

“Quyền lịch sử” của Trung Cộng trên Biển Đông là quyền gì?

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Trong vài ngày qua từ các trang mạng xã hội, diễn đàn, cho đến các tầng lớp, thế hệ Việt Nam trong cũng như ngoài nước, một luồng sóng cảm tình dành cho Philippines tràn ngập, nhiều hơn cả khi quốc gia này bị cơn bão Yolanda càn quét cách đây ba năm. Đây là một tình cảm rất tự nhiên giữa những người cùng số phận nhỏ nhoi nhưng phải đương đầu với một Trung Cộng to lớn và đầy tham vọng.

Ủng hộ Philippines không có nghĩa ủng hộ chủ quyền của Phi trên các đảo Philippines đòi hỏi mà là ủng hộ một nước dân chủ nhưng sức yếu chống lại một Trung Cộng bá quyền bành trướng.

Phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration, PCA) không có nghĩa sẽ làm ngưng tranh chấp và phần thắng chỉ thuộc về Philippines vì rất nhiều quốc gia trong vùng có quyền lợi trực tiếp nhưng chưa chọn cách giải quyết tranh chấp qua phương pháp trọng tài. 

Ý nghĩa quan trọng trong phán quyết là quốc tế hóa được cuộc tranh chấp, tạo khả năng mặc cả đa phương giữa các bên liên hệ trước một hội nghị hay trước tổ chức trọng tài quốc tế, giới hạn chiếc bẫy “thảo luận song phương” chỉ nhằm “câu giờ” của Trung Cộng. 

Với những quốc gia chủ trương quốc tế hóa Biển Đông, chiến thắng của Philippines mở ra cánh cửa đàm phán xa hơn về quyền lợi và trách nhiệm một cách bình đẳng giữa các nước trong vùng. 

Với các cường quốc Mỹ, Nhật, chiến thắng của Philippines giúp cho họ thêm lý do quốc tế để can thiệp cụ thể và tích cực hơn trong tranh chấp. 

Một cái tát của PCA chỉ nhắm vào mặt Trung Cộng thôi, đó là việc phủ nhận quan điểm “quyền lịch sử”, lý luận cốt tủy mà Trung Cộng dùng để biện hộ cho “đường lưỡi bò” trên Biển Đông. 

Như chúng ta đều biết, trong hầu hết các văn bản, tuyên bố, phát biểu, các lãnh đạo Trung Cộng luôn nhắc tới nhắc lui câu “quyền lịch sử của Trung Quốc” để cho rằng 90% của Biển Đông vốn thuộc về Trung Quốc không phải hôm nay mà từ hai ngàn năm trước. 

Nhưng tòa phán: "Tòa nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển, ngư dân từ Trung Quốc và các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong "đường 9 đoạn".

Đặng Tiểu Bình và “quyền lịch sử”

Vào thập niên 1960, Đặng Tiểu Bình là trưởng phái đoàn đại diện Trung Cộng trong đàm phán với Liên Xô về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri. Khi có phiên họp, phái đoàn họ Đặng không chỉ mang theo giấy tờ tài liệu mà còn chở theo nhiều toa xe lửa chứa đầy sách vở và đồ vật để chứng minh “quyền lịch sử” của Trung Quốc trên các đảo này. 

Trung Quốc vốn là một nước đông dân, diện tích rộng, có nền văn minh phát triển sớm, có chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, do đó, việc tổ tiên họ đã từng đến, từng đi đánh cá, từng đặt chân một đôi ngày, từng mô tả trong văn chương thơ phú về các hòn đảo đó thì cũng không có gì là đáng ngạc nhiên. Những tài liệu phía Đặng Tiểu Bình đưa ra hay vật dụng họ góp nhặt được dù bao nhiêu cũng không thuyết phục Liên Xô hay chứng minh những đảo đó thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Dĩ nhiên hai đàn anh CS không đưa tranh chấp ra PCA như ngày nay.

Sau hơn 20 năm vừa đánh vừa đàm, một hiệp ước biên giới Liên Xô - Hoa đã được ký kết lần đầu vào tháng 10 năm 1991, lần nữa vào tháng 10 năm 2004 với Nga và lần cuối cùng vào tháng 7, 2008 cũng với Nga. Cả Trung Cộng lẫn Nga đều biết, lý do chính của xung đột trước đây không phải là lãnh thổ mà là sự tranh chấp quyền lực của hai nước cộng sản đàn anh trong phong trào cộng sản quốc tế. Khi Liên Xô sắp sụp đổ, chủ quyền trên các đảo vốn không chứng tỏ một tiềm năng kinh tế nào không còn là yếu tố quan trọng để giằng co, tranh chấp nữa. Cái gọi là “quyền lịch sử” không đóng vai trò gì trong hiệp ước biên giới giữa Liên Xô và sau đó là Nga với Trung Cộng. 

Tân Hoa Xã giải thích “quyền lịch sử”

Theo báo Times, hôm 12 tháng 7 vừa qua, các đài truyền hình Trung Cộng cho chiếu một số tranh hoạt họa của Tân Hoa Xã như là cách để giải thích cái gọi là “quyền lịch sử” của Trung Cộng trên Biển Đông. 

Một trong số tranh hoạt họa là mẫu đối thoại ngắn giữa ba con thú đại diện cho ba thành phần trong vụ kiện. Một con cáo đại diện cho PCA, một con khỉ tí hon đại diện cho Philippines và con Panda dễ thương đại diện cho Trung Cộng. Con Panda trả lời câu hỏi tại sao Trung Cộng có “quyền lịch sử”, bởi vì “chúng tôi đã giong buồm và đánh cá trên biển Nam Trung Hoa ngay cả trước khi Chúa Jesus ra đời”

Việc cho rằng người dân Trung Hoa đã từng “giong buồm và đánh cá” nên Biển Đông thuộc Trung Cộng nghe phi lý đến mức buồn cười; tuy nhiên, đây lại là lý luận chiến lược mà Trung Cộng áp dụng trong đàm phán biên giới từ ngày lập quốc CS năm 1949 tới nay. 

“Quyền lịch sử” dưới mắt Hitler và các lãnh đạo Trung Cộng

Đối với quốc tế, “quyền lịch sử” của Trung Cộng đúng như PCA phán quyết không có giá trị gì nhưng với không ít dân Trung Cộng bị tuyên truyền tẩy não, đó lại là quyền “thiêng liêng, bất khả xâm phạm”. 

Quan điểm cực đoan Đại Hán này là sản phẩm của bộ máy tuyên truyền bắt đầu từ thời Đặng Tiểu Bình và nâng lên thành “Giấc Mơ Trung Quốc” dưới thời Tập Cận Bình. Họ Đặng và nay họ Tập cho rằng Trung Cộng không chủ trương xâm lược quốc gia nào hay dân tộc nào mà chỉ thu hồi lãnh thổ và lãnh hải vốn thuộc Trung Quốc. 

Lý luận ngụy biện và điên cuồng này là bản sao quan điểm của Hitler đã dùng để khai mào cho Thế chiến Thứ Hai khi y cho rằng Đức chỉ nhằm “phục hồi những lãnh thổ vốn thuộc về Đức nhiều thế kỷ”. 

Tương tự, khẩu hiệu “100 năm sỉ nhục” được các lãnh đạo Trung Cộng dùng làm củi để đun lò lửa dân tộc cực đoan tại Trung Cộng cũng không khác gì lời lẽ Hitler đã viết về hiệp ước Versailles trong Mein Kampf: “Mỗi điểm của hiệp ước đã ghi sâu vào ý thức và con tim của dân tộc Đức và đốt cháy họ cho đến khi tâm hồn của sáu chục triệu dân bùng lên ngọn lửa công phẫn và nhục nhã”.

Như vừa viết ở trên, ngay cả việc người dân Trung Hoa hai ngàn năm trước đã thật sự có giong buồm trên Biển Đông, có ghé Hoàng Sa, Trường Sa vài hôm để bắt yến, tức cảnh sinh tình hạ bút vài câu thơ và được đời sau ghi chép lại cũng không thể cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quyền lịch sử của Trung Cộng. 

Lịch sử thế giới để lại vô số tài liệu của các nhà thám hiểm, thăm dò, kể cả dấu tích của đoàn viễn chinh lừng danh Viking do Leif Erikson chỉ huy từng khám phá ra Bắc Mỹ vào thế kỷ 11 trước Christopher Columbus vào thế kỷ 15, nhưng không tổ chức quốc tế nào căn cứ vào các tài liệu lưu trữ để cho rằng chủ quyền biển đảo của một quốc gia phát xuất từ người đã thăm dò, thám hiểm hay khám phá ra vùng đất đó.

Một lãnh thổ, đất hay đảo, của một quốc gia phải là lãnh thổ được phát hiện, chiếm hữu, điều hành trong hòa bình, có tính pháp lý, đơn vị hành chánh chính thức, được ghi lại trong bản đồ của quốc gia đó và được quốc tế công nhận chứ không phải cưỡng chiếm bằng võ lực như Trung Cộng đã làm đối với Philippines và Việt Nam. 

Tập Cận Bình, kẻ nuôi cọp đang lo cọp sẽ ăn thịt mình, do đó, không lạ gì trong thời gian ngắn tới đây, y vẫn sẽ tuyên bố hung hăng kể cả những hành động gây hấn với các nước láng giềng để xoa dịu lò lửa cực đoan Đại Hán tại lục địa nhưng chính y cũng biết gió đã đổi chiều. 

“Quyền lịch sử” của Trung Cộng về chủ quyền trên Biển Đông thực chất chỉ làquyền ăn cướp.

15.07.2016


Luật pháp và lý lẽ của du côn

Nguyễn thị Cỏ May (Danlambao) - Suốt trong nhiều thế kỷ qua, những tranh chấp giữa các bên thường được giải quyết trên cơ sở luật pháp hoặc quyết định cưỡng chế qua từ ngữ phổ thông là "trọng tài". Tính liên lập và đoàn kết quốc tế vẫn chưa tiến tới thành lập một thứ tòa án thường trực như ngày nay. Từ thời xa xưa, nhiều nơi ở vùng Địa-trung hải như Ba-tư, Hi-lạp, La-mã, dân chúng đã biết vận dụng vai trò trọng tài để giải quyết sự tranh chấp một cách ôn hòa. Tức một thứ "trọng tài hòa giải" trong ý nghĩa mà ngày nay ta hiểu được. Âu châu thời Trung cổ cũng đã biết qua hoạt động hòa giải khá phổ biến. Như một thứ Tòa án, một bên do Giáo hoàng và nhà vua chỉ định, và bên kia do cấp dưới, đại diện Thị xã chọn. Luật lệ áp dụng để giải quyết tranh chấp là luật giáo hội, luật la-mã, luật tự nhiên, luật thiêng liêng hoặc tập tục địa phương...

Năm 1899, sau Hội nghị về Hòa bình lần đầu tiên tại La Haye (Den Haag, Thủ đô Hòa-lan), Tòa án Thường trực Trọng tài (La Cour permanente d’Arbitrage) được thành lập. Đó là một tổ chức quốc tế độc lập có nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp giữa quốc gia với quốc gia và cả giữa quốc gia với xí nghiệp hay giữa quốc gia với tư nhân. 

Từ năm 1913, Cơ quan này tọa lạc ngay tại lâu đài Hòa bình (Palais de la Paix, ở La Haye) với sự tham gia của 110 Quốc gia thành viên. Qua thời gian, Tổ chức Quốc tế này trở thành một Cơ sở hiện đại và đa dạng, vận dụng vừa công pháp quốc tế, vừa tư pháp quốc tế để đáp ứng những đòi hỏi giải quyết tranh chấp ngày càng nhiều của cộng đồng quốc tế như trọng tài, hòa giải, ủy ban điều tra...

Tòa án Thường trực Trọng tài không có Thẩm phán thường trực để phán quyết những hồ sơ tranh chấp đệ nạp, mà mỗi khi có kiện tụng thì Thẩm phán sẽ được các bên chọn lựa trên danh sách đề nghị. 

Hôm 12 tháng 7/2016, Tòa án Thường trực Trọng tài La Haye đã xét xử hồ sơ Biền đông của Philippines kiện Trung quốc và tuyên bố Trung quốc hoàn toàn có lỗi vì vi phạm Công ước về luật biển. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 296 của Công ước và Điều 11 của bản Phụ lục VII, phán quyết này còn có tính ràng buộc pháp lý và có tính chung thẩm. 

Trung quốc và phán quyết của Tòa án

Tòa án Thường trực Trọng tài (Phụ lục VII của bản Công ước Liên hiệp Quốc về Luật Biển) xác nhận có đầy đủ thẩm quyền xét xử vụ Philippines kiện Trung quốc vi phạm chủ quyền và quyền lợi của Philippines vừa hoàn toàn nhứt trí thông qua và ban hành phán quyết. Tuy nhiên Tòa án Thường trực Trọng tài nói rỏ không phán quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất liền và không phân định bất kỳ một ranh giới nào trên biển giữa các bên của vụ kiện. 

Vụ kiện do Philippines đề xuất trước Tòa án Thường trực Trọng tài liên quan đến "quyền lịch sử" và nguồn xác định "quyền hưởng các vùng biển" tại Biển Đông, "sự bồi đắp một số đảo trong vùng và các vùng biển của các cấu trúc này và tính hợp pháp" của các hành vi của Trung Quốc mà Philippines cho là vi phạm Công ước Quốc tế về Luật biển. 

Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố "không chấp nhận cũng như không tham gia vào tiến trình trọng tài do Philippines đơn phương khởi xướng". Tuy nhiên, Phụ lục VII quy định rằng "việc vắng mặt của một bên hoặc việc một bên không thực hiện việc biện hộ không tạo nên bất kỳ rào cản nào cho tiến trình tố tụng". 

Phụ lục VII cũng quy định rằng trong trường hợp một bên không tham gia vào tiến trình tố tụng, Tòa án Thường trực Trọng tài "phải chắc chắn rằng Tòa có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp cũng như nội dung kiện phải được chứng minh đầy đủ cả về mặt pháp lý và thực tế". 

Theo đó, trong suốt quá trình tố tụng, Tòa Thường trực Trọng tài đã thực hiện các biện pháp cần thiết để kiểm tra tính xác thực của các hồ sơ do Philippines đưa ra, bao gồm cả việc yêu cầu Philippines cung cấp thêm các lập luận, đặt ra các câu hỏi cho Philippines trước và trong hai phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên viên độc lập có nhiệm vụ báo cáo Tòa về các vấn đề kỹ thuật và thu thập các bằng chứng về mặt lịch sử liên quan đến các cấu trúc tại Biển Đông và chuyển các bằng chứng này để các bên bình luận. 

Theo đó, Tòa án Thường trực Trọng tài kết luận điều mà Trung Quốc gọi là "Quyền lịch sử" cho phép Trung quốc làm chủ vùng Biển Đông và các nguồn tài nguyên trong vùng bị Tòa bác bỏ do tất cả lập luận của Trung quốc đều không phù hợp với qui định của Công ước về Luật Biển. 

Tòa dẫn giải trong lịch sử những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc hay từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử, Trung Quốc đã chỉ một mình kiểm soát thật sự và thường xuyên có trách nhiệm vùng biển này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong "đường 9 đoạn" do Trung quốc đơn phương tự phát họa. 

Tiếp theo, Tòa nhận thấy các đảo của Trường Sa đã bị Trung quốc làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Tòa cũng nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá. Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa chỉ khi nào có khả năng khách quan và ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. 

Tòa cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trung quốc trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng thật sự của các cấu trúc đó. Toà kết luận như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định nên không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. 

Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Tòa có thể không cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có. 

Nhận thấy rằng các vùng nhất định nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, Toà cho rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này bằng việc can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Philippines, xây dựng đảo nhân tạo và không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt bất hợp pháp ở khu vực này. 

Toà cũng khẳng định rằng ngư dân Philippines đã có quyền đánh cá truyền thống ở Bãi Scarborough và rằng Trung Quốc đã ngăn chặn các quyền này bằng cách hạn chế việc tiếp cận khu vực này. Toà cũng khẳng định rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc gây ra rủi ro va chạm nghiêm trọng một cách bất hợp pháp khi họ đã trực tiếp cản trở các tàu của Philippines. 

Tòa xem xét ảnh hưởng môi trường biển do các hoạt động bồi đắp và xây dựng nhân tạo của Trung Quốc trên 7 cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa gần đây và nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây thiệt hại nghiêm trọng các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe dọa và bị hủy diệt. 

Toà cũng cho rằng nhà chức trách Trung Quốc nhận thức được việc ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt các loài rùa biển, san hô và trai khổng lồ quý hiếm trên diện rộng ở Biển Đông (bằng các biện pháp gây ra tổn hại nghiêm trọng rặng san hô) và đã không thực hiện các nghĩa vụ trong việc ngăn chặn và chấm dứt các hoạt động này. 

Toà nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và phá hủy các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông còn là một phần của tranh chấp giữa các bên. 

Toà án Thường trực Trọng tài xét xử vụ Philippines kiện Trung quốc được thành lập vào ngày 21/6/2013, phù hợp với những quy định trong Phụ lục VII Công ước Luật biển, đã công bố phán quyết hôm 12 tháng 7/2016 vừa qua hàn toàn bác bỏ mọi lập luận về chủ quyền của Trung quốc trên vùng Biển Đông. Toà bao gồm Thẩm phán người Ghana Thomas A. Mensah, Thẩm phán người Pháp Jean-Pierre Cot, Thẩm phán người Phần Lan Stanislaw Pawlak, Giáo sư người Hà Lan Alfred H. A. Soons và Thẩm phán người Đức Rüdiger Wolfrum. Thẩm phán Thomas A. Mensah là Chủ tịch Tòa Trọng tài. Toà Trọng tài Thường trực là cơ quan đăng ký trong quá trình xét xử. 

Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong luật pháp quốc tế có nguyên tắc cơ bản là " không thiện chí " không thể tự suy diễn và thấy rằng Điều 11 của Phụ lục VII đã quy định "phán quyết... sẽ được các bên trong tranh chấp tuân thủ". Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy không cần thiết phải đưa ra tuyên bố nào nữa. 

Cư xử văn minh hay hành xử cộng sản?

Trung quốc đã từng tuyên bố "không nhìn nhận phán quyết của Tòa án Thường trực Trọng tài, cũng không thừa nhận tòa án này" vì dư biết trước sẽ bị buộc tội vi phạm luật biển mà Trung quốc đã tham gia. 

Bản chất của cộng sản là bạo lực và dối trá. Quyền lực phát xuất từ khẩu súng. Mà ngày nay, Trung quốc chẳng những đã mạnh về quân lực, mà còn có nhiều tiền, là cường quốc thứ nhì thế giới thì có gì họ không dám làm?

Tử tế lắm, họ sẽ dịu lại để tỏ bộ mặt ôn hòa, rồi từng bước nhỏ tiến hành tiếp tục thực hiện dự tính của họ thôn tính trọn Đông Nam Á, tránh những xung đột không cần thiết, để sau cùng làm chủ thế giới. Theo chiến thuật cố hửu "đánh đánh, đàm đàm". 

Về phía Việt Nam, tình hình có thuận lợi nhưng Hà Nội vẫn không thể chọn con đường nào khác hơn chủ nghĩa xã hội và bám sát đít Bắc Kinh. Sẳn sàng đàn áp nhơn dân để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa hơn là bảo vệ quyền lợi đất nước dân tộc. Cộng sản xưa nay không có riêng Tổ quốc. 

Mọi việc chắc chắn sẽ không có gì khác hơn nếu không có ai tuân hành phán quyết của Tòa án Thương trực Trọng tài một cách cụ thể hơn. Công pháp quốc tế chỉ hợp thức hóa những hành động du côn. Lịch sử đã chứng minh Hà Nội 2 lần vi phạm phán quyết quốc tề, vẫn trở thành Hội viên LHQ và còn làm thành viên không thường trực Hội Đồng Bảo An LHQ. 

Người xưa thường nhắc nhở "cứt trâu để lâu hóa bùn"!

15.07.2016


Biển đông, không chỗ cho những kẻ hèn!

Phong Pham (Danlambao) - "Manila, không muốn có thêm những hành động khiêu khích Trung Quốc. Họ đang giận dữ vào lúc này", Bộ trưởng Quốc phòng Philippines là Delfin Lorenzana nói với Reuters. “Cảm xúc đang dâng cao và chúng tôi không muốn cho họ có thêm lý do để có những hành động bạo lực.”Trích BBC.

Đó là lời của một quan chức Philippines khi nói về cảm giác của Bắc Kinh, sau khi đường lưỡi bò trên nguyên tắc là đã bị cắt đứt. Tuy nhiên, bỏ qua những cảm xúc dân tộc bồng bột, những người có trách nhiệm đều hiểu rằng "chiến tranh không phải là trò chơi". Mặc dù vậy, sự sỉ nhục này đối với những người Tàu đã được tẩy não bởi chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, cực đoan, hẹp hòi, là rất lớn. Phản ứng của giới "sao" của Trung cộng là một ví dụ cụ thể nhất. Rồi mai đây trên đường lưu diễn, nếu có ai đó sử dụng việc này để khiêu khích họ, họ sẽ phải trả lời ra sao?

Cũng phải nói thêm rằng, với kiểu cách hành xử vô luật pháp của Trung cộng như từ trước đến giờ, nếu vẫn chưa ra tay với một ai đó thì điều này chứng tỏ họ đã có kềm chế dù đang bị sức ép rất lớn từ công chúng. Cần nhớ rằng, kể từ cuộc chiến với VN năm 1979 đến giờ Trung cộng đã có một thời gian hòa bình khá lâu. Chân tay họ bắt đầu ngứa ngáy.

Theo tôi suy đoán, một cuộc chiến nhỏ với một nước nào đó (90% với VN) chắc chắn sẽ nổ ra, việc này sẽ tùy thuộc vào tình hình nội chính của Trung cộng. Nếu chủ trương " đập ruồi, đả hổ " của TCB không thành công do sự chống đối ngầm từ các nhóm quyền lực khác trong chính quyền hoặc kinh tế Trung cộng gặp khó khăn. Trung cộng sẽ không ngần ngại mà hy sinh "tình hữu nghị viển vông" với Việt Nam để hướng sự chú ý và áp lực của quân chúng ra ngoài biên giới.

Sẽ không có chuyện họ sẽ điều chỉnh lại chính sách về biển Đông trong một thời gian dài mà việc ra sách Trắng khẳng định chủ quyền của đường lưỡi bò, chỉ một ngày sau phán quyết của Tòa án Trọng tài là một dẫn chứng cụ thể nhất. Trung cộng sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng chiếm trọn biển Đông. Hiện giờ, vẫn chưa có dấu hiệu là Trung cộng sẽ xuống thang tranh chấp. Họ chỉ thấy rằng giờ chưa phải là lúc ra tay.

Những cái đầu tỉnh táo ở Trung Nam Hải chắc đang âm thầm cảm ơn người Mỹ và hai hạm đội tàu sân bay đang tập trung tại Subic - Philippines đã tạm cho họ một lý do khá mạnh mẽ để hãm cương của đám tướng tá diều hâu trong quân đội, đợi thời cơ.

Người Phi, dù đang ở thế thượng phong, nhưng vẫn đang rất thận trọng để không chọc tức thêm Trung cộng. Họ không muốn chiến tranh và cũng không muốn gây thêm bất hòa với Trung cộng. Phần thắng đã thuộc về họ. Lấy lại biển đảo chỉ là vấn đề thời gian. Họ không vội vã. Giờ là lúc giới ngoại giao hoạt động.

Với người Mỹ cũng vậy. Phương thức đề phòng và nhân tiện kềm chế Trung cộng đã có hiệu quả. Mục tiêu của họ là kềm chế Trung cộng và họ đã đạt được. Họ không sợ Trung cộng nhưng cũng không muốn chiến tranh. Họ hiểu rõ vấn đề rằng, Trung cộng dù sao cũng là một cường quốc, còn chưa nói đến là hai bên có mối quan hệ về thương mại rất phát triển. Họ cũng không muốn làm đổ vở điều đó.

Đó đây đã có vài tiếng nói, tìm con đường cho Trung cộng rút lui trong danh dự.

Việt Nam, dù không tham gia vào vụ kiện, nhưng là một trong những bên có liên hệ trực tiếp, lẽ nào lại đứng ngoài trong canh bạc tháu cáy có liên quan hệ trọng đến những hòn đảo, vùng biển thân yêu của Tổ tiên đã dày công khai phá và để lại cho hậu thế. Không khởi kiện Trung cộng, Việt Nam đã tự trói chặt tay chân vào 16 chữ vàng, 4 tốt hảo huyền, để mặc cho kẻ thù truyền kiếp thao túng, hoành hành.

Nếu nhà cầm quyền và đảng CSVN, với suy nghĩ luồn cúi, hèn ha, sợ sệt Trung cộng giống như trong quá khứ, vẫn luôn tâm niệm là "hy sinh tất cả để bảo vệ đảng, bảo vệ CNXH" như đã từng dâng hiến biển đảo của Cha ông thể hiện qua Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng, qua việc ngăn cấm binh sĩ không được nổ súng trong trận Gạc Ma, công khai bán rẽ đất nước và dân tộc này cho Trung Cộng.

Và nếu vì vậy, mà lần này để mất thêm biên cương đất nước trong tay kẻ thù, thì đảng CSVN và những người theo họ, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước quốc gia và dân tộc Việt Nam.

16.07.2016