Wednesday, July 11, 2018

Như có bác Hồ trong ngày Dân xuống đường

Cu Tèo (Danlambao) - Bắt chước nhạc sĩ Phạm Tuyên từng ước “như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” cách đây hơn 43 năm, Cu Tèo chặc lưỡi, “chà chà, giá chi như có bác Hồ” trong những ngày Dân xuống đường biểu tình chống bọn “đặc khu” và “an ninh mạng” vừa rồi.

Cái “vui” của ông nhạc sĩ “thiên tài liền với thiên tai một vần” này thì đã quá rõ ràng và được “cả thế giới loài người tiến bộ” “biết rồi! khổ lắm, nói mãi!”. Chỉ cần vắn tắt, rằng, cái “vui” của nhạc sĩ “thiên tài” này, vừa bàng bạc mùi thiên tai: thay vì “khóc như cha chết”, Phạm Tuyên lại đi đòi vui với kẻ đã giết cha mình; lại vừa mang đầy tính hài hước: “Bộ đội cụ Hồ” mà Phạm Tuyên xưng một bác Hồ hai bác Hồ, khi vào đến thành thị Miền Nam đã bật ngửa ra mình bấy lâu nay bị lừa, khiến cô chiến sĩ gái Dương Thu Hương phải ngồi gục mặt xuống bên vệ đường “Sài Gòn giải phóng” mà khóc nức nở và thốt lên,” Phía man rợ đã chiến thắng bên văn minh”. 

Những anh“giải phóng” đang “hồ hởi phấn khởi” 
sắm đồ “tàn dư Mỹ Ngụy” để mang về bắc làm quà “chiến lợi phẩm”

Anh trở về sau khi hoàn thành sứ mạng cao cả “phỏng hai hòn Miền Nam”

Trái với nhạc sĩ thiên tai ước chi có bác Hồ trong ngày vui “chửi cha” (Phạm Quỳnh) và quá xá là hài hước, Cu Tèo chặc lưỡi “chà chà, giá như có bác Hồ trong những ngày Dân xuống đường chống bọn “đặc khu” và chống bọn “an ninh mạng”, thì không biết “bác” sẽ bị những thế lực phản động đang công khai bán nước hại dân này chúng sẽ “xử lý” “cha già dân tộc này ra sao, khủng đến mức độ nào?”.

“Các cháu” hôm nay xuống đường để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ quyền tự do tư tưởng, cũng là vì làm theo lời “bác dạy”: Nào là, “Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải lo giữ nước”, nào là, “không có gì quý hơn độc lập tự do”.

“Học trò” chỉ làm theo lời thầy dạy mà còn bị bọn phản động “đặc khu” và “an ninh mạng” chúng cản, chúng ngăn, chúng bắt bớ, chúng tra tấn, chúng đánh đập, chúng đe dọa, và chúng dùng những trò bỉ ổi khác như báo chí đã đưa tin. Chứ giá như “ông thầy” cũng xuống đường với mục đích ấy mà bị chúng vớ được, thì không biết trước khi “tự tử” trong đồn Côn An, “người” có kịp xin các đồng chí “đặc khu” và “an ninh mạng” khoan hồng nhân đạo cho được nghe một bài hát...Tàu như trước kia nữa không.

Nghĩ đến đó, Cu Tèo “khóc cả một dòng sông”. Ướt dầm dề xót thương “bác” vì đã bị đuổi học mà phải “ra đi tìm đường kíu nước” để nước lâm vào nông nổi hôm nay, và tiếc cho công lao “người” đã sao chép bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ để đọc giữa vườn hoa Ba Đình nay bị nghe vẫn “nổ” như sấm.
12.07.2018


Cảnh báo việc quen gọi THAM NHŨNG là NỘI XÂM! - Bàn về 2 sự chệch hướng của Tổng Bí thư

Hà Sĩ Phu (Danlambao) - ...Đây là giai đoạn mà toàn dân đang phải khẩn trương đoàn kết lại thành sức mạnh để đập tan sự kết hợp giữa bán nước và cướp nước để bảo toàn lãnh thổ và chủ quyền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, chứ không phải giai đoạn hừng hực đốt lò chống Tham nhũng của ông TBT. Chống Tham nhũng tuy là việc quan trọng và rất cần thiết nhưng điều quan trọng là phải chống cơ chế chính trị độc quyền là nguyên nhân phát sinh, đồng lõa và bảo vệ cho Tham nhũng và phải tiến hành tại thời điểm thích hợp sao cho không làm lu mờ nhu cầu bức thiết số một là nhu cầu tập trung sức mạnh toàn quốc vào việc chống nạn ngoại xâm kiểu mới của Tàu Cộng - mà Luật Đặc khu đang là đòn quyết định trong chiến lược cướp nước và bán nước ấy...

*

1/ Câu chuyện về tuổi Thân-Tý-Thìn tam hợp 

Xin mở đầu vấn đề rất nghiêm túc và hệ trọng này bằng một mẩu chuyện tầm phào, nửa đùa nửa thật: 

Có lần một anh bạn chỉ tận mặt tôi mà khôi hài: 

- Bác đáp ứng trúng tiêu chuẩn của ông TBT rồi nhá, bác là "người miền Bắc, có ní nuận" mà! Chỉ có điều người ta thì ní nuận xây dựng đảng, còn bác thì “xây dựng” gì nhỉ, xây dựng con người, xây dựng đất nước... hả? 

Tôi phì cười: 

- Mình là phó thường dân, ông ấy là Cộng sản đệ nhất quyền lực, liên quan làm gì?. 

- Liên quan quá đi chứ, giống nhau lắm. Một ông tuổi Thân một ông tuổi Thìn. Thân Tý Thìn tam hợp. Nhiều cái liên quan bác thấy không? Năm 2000 bác bị Công an và viện Kiểm sát khởi tố tội Phản quốc nhưng không xử được. Còn ông Trọng vừa rồi bị hàng trăm ngàn công dân “đả đảo” cái tội Phản quốc vì là người chủ chốt cho kẻ thù chiếm cứ 3 đặc khu, chẳng biết rồi có xử được không?... 

Tôi vốn không tin chuyện Tử vi, số mệnh do ngày sinh tháng đẻ, nhưng ngẫm ra anh bạn nói sao mà có lý. Thân Tý Thìn liên quan thật. Ngay bây giờ đây, khi trên báo nhà nước vừa trích lời ông Trọng “cuộc chiến chống giặc Nội xâm đang ở giai đoạn quyết liệt” thì quả thực tôi (HSP) cũng đang muốn nói một câu y như vậy! Chỉ có điều nội hàm trong câu nói thì khác hẳn nhau, mỗi bên chỉ tay vào mặt một bọn “Nội xâm” khác nhau để nói những điều khác nhau. Cùng nói một câu tiếng Việt giống nhau nhưng “ông nói gà mà bà nói vịt”. Thân Tý Thìn vừa tương đồng vừa tương khắc mới đúng, có lẽ thế. Cùng người Việt nói chuyện với nhau mà đôi lúc cứ như hai người ngoại quốc “ngôn ngữ bất đồng”! Bất đồng trước hết ở nội hàm “Nội xâm” mà tôi xin nói rõ dưới đây. 

1/ Sự ví von giữa Tham nhũng và Nội xâm có mặt trái nguy hiểm 

Tham nhũng rất đáng ghét, đáng phải trị tội thật nặng nề, nhưng xin các vị đừng gọi Tham nhũng là Nội xâm nữa! Nói như vậy bọn Nội xâm nó sướng lắm! 

Gọi Tham nhũng là Nội xâm chỉ là sự ví von do cảm xúc, được dùng từ thời HCM, tuy thể hiện được lòng căm ghét Tham nhũng và nhấn mạnh được tác hại của Tham nhũng, nhưng sự đồng nhất hai khái niệm này khiến người ta quên đi kẻ Nội xâm thật, Nội xâm theo đúng nghĩa. Cứ nói đến “giặc Nội xâm” là chỉ nghĩ đến tội Tham nhũng mà quên rằng có một bọn Nội xâm đúng nghĩa mà tội của của chúng thì to lớn hơn và nguy hiểm hơn rất nhiều. Vậy Nội xâm đúng nghĩa là gì? 

Cách đây 11 năm (1907) ba khái niệm Mất nước, Ngoại xâm, Nội xâm lúc nào cũng lởn vởn trong đầu óc tôi. Trong bài Vừa nội xâm vừa ngoại xâm, phải làm gì trước? tôi đã nêu định nghĩa sự mất nước và nạn Nội xâm như sau: 

“Xuất phát từ quan điểm Dân là gốc của nước thì ngày nay phải hiểu “mất nước” là tình trạng nhân dân bị mất quyền làm chủ đất nước của mình. Nước vẫn còn đó nhưng dân không làm chủ thì đấy là mất nước! 

… Quyền làm chủ ấy của nhân dân bị mất vào tay người nước ngoài thì gọi là nạn ngoại xâm, mất vào tay kẻ thống trị độc tài trong nước thì đó là nạn nội xâm.Giặc ngoại xâm hay nội xâm đều cướp mất của dân quyền làm chủ đất nước, trong đó có quyền quan trọng nhất là quyền làm chủ đối với đất đai, lãnh thổ. Cả hai trường hợp đều do thiếu dân chủ, thiếu bình đẳng, hoặc là thiếu dân chủ giữa các quốc gia, hoặc do thiếu dân chủ trong nội bộ một nước.” 


Xem như vậy thì làm sao có thể gọi bọn Tham nhũng là giặc Nội xâm được? Tham nhũng là tội ác phải trừng trị nhưng chưa hẳn đã làm cho nhân dân mất quyền làm chủ đất nước. Tham nhũng tiền bạc là tội về đạo đức, tội hình sự về kinh tế, còn tội làm mất quyền làm chủ của nhân dân là tội Chính trị, chỉ những kẻ có quyền lực Chính trị lớn, bọn “tham quyền lực” đầu sỏ mới mắc được tội Nội xâm tức tội “cướp nước” của dân. Khi đã cướp được nước của dân thì kẻ Nội xâm sẵn sàng “sang nhượng” tức bán nước cho ngoại bang là việc quá dễ dàng mà nhân dân đành cam chịu. 

Với một nhân vật Chính trị thì “con người cá nhân” không quan trọng bằng “con người chức năng”. Chức năng của họ là dẫn dắt, điều hành dân tộc, nếu dẫn dắt đi lầm đường, đi vào ngõ cụt, đi vào nguy hiểm thì tội cực lớn, trong khi có thể hắn không tham nhũng nhiều về kinh tế, và có thể vẫn giữ được tư cách đạo mạo, không mắc những điều đạo đức thông thường hoặc những khiếm khuyết dễ thấy về tác phong ứng xử. 

Cho nên, trong khi ông Tổng Bí thư nói “cuộc chiến chống giặc Nội xâm đang ở giai đoạn quyết liệt” thì tôi cũng muốn nói một câu hệt như thế nhưng nội hàm hoàn toàn khác. Nói cách khác, theo tôi, câu nói rất mạnh nói trên của ông TBT có 2 sự chệch hướng: 

- Bọn Nội xâm là bọn tội phạm chính trị như vừa định nghĩa ở trên, chứ không phải bọn Tham nhũng! 

- Chống bọn Nội xâm theo đúng định nghĩa như vậy quả là “đang ở giai đoạn quyết liệt” nhưng “giai đoạn” ở đây là giai đoạn mà toàn dân đang phải khẩn trương đoàn kết lại thành sức mạnh để đập tan sự kết hợp giữa bán nước và cướp nước để bảo toàn lãnh thổ và chủ quyền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, chứ không phải giai đoạn hừng hực đốt lò chống Tham nhũng của ông TBT. 

Chống Tham nhũng tuy là việc quan trọng và rất cần thiết nhưng điều quan trọng là phải chống cơ chế chính trị độc quyền là nguyên nhân phát sinh, đồng lõa và bảo vệ cho Tham nhũng (1) và phải tiến hành tại thời điểm thích hợp sao cho không làm lu mờ nhu cầu bức thiết số một là nhu cầu tập trung sức mạnh toàn quốc vào việc chống nạn ngoại xâm kiểu mới của Tàu Cộng (mà Luật Đặc khu đang là đòn quyết định trong chiến lược cướp nước và bán nước ấy). 

Một khi chủ quyền của Tổ quốc không còn thì kết quả chống Tham nhũng dẫu có “vĩ đại” đến mấy cũng trở thành vô nghĩa! (Ấy là cứ giả thiết việc “đốt lò” là nhằm chống Tham nhũng thật, chứ không nhằm dọn giẹp nội bộ, tập trung quyền lực để chuẩn bị rất công phu cho việc trao 3 Đặc khu nhượng địa cho Tàu Cộng làm “một con đường, một vành đai” xiết chặt Việt Nam được thực hiện suôn sẻ!). 

*
(1) Quyền lực tuyệt đối thì Tham nhũng tuyệt đối, đó là nhận thức cơ bản của nền Chính trị hiện đại, và chính ông TBT cũng công nhận ”. Một cơ chế quyền lực độc đảng, lãnh đạo một cách “trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối” thì chính là cội nguồn bất tận tuôn ra bạt ngàn những dòng thác trào tham nhũng, tràn ngập khắp chốn thị thành và làng quê xóm ngõ, sức nào mà chống cho hết được? Trong khi “lò chống tham nhũng” đang cháy rừng rực nơi cung đình thì khắp nơi, tận hang cùng ngõ hẻm tham nhũng vẫn thản nhiên bủa vây cuộc sống. 

11.07.2018

Quốc Ca mới

Điệp Mỹ Linh (Danlambao) - Mở YouTube do người bạn vừa chuyển đến, tôi rất ngạc nhiên khi nghe tiếng trumpet và saxophone trổi lên bài Quốc ca của Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Nhìn vào YouTube tôi mới thấy dòng chữ Quốc Ca Mới của CSVN. Tôi tự hỏi, đây là nhạc điệu của bài Tiến Quân Ca do Văn Cao sáng tác - CSVN dùng làm Quốc ca chứ có khác chi đâu mà bảo “mới” thì tiếng hát vang lên: 

“Đoàn quân Cộng nô đây chung lòng bán nước. Lấy Vân Đồn đem giao cho quân ngoại xâm. Đường biên giới phía Bắc đâu còn nữa, chúng dời sâu vô phía bên Việt Nam! Và hôm nay Phú Quốc với Vân Phong, chúng cho quân Tàu thuê lập đặc khu! Vì đô la chúng quyết không dừng, quyết cho ra luật rừng. Nhấn… (nút) đi! Và bấm đi! Nước non Việt Nam ta… bán rồi!” 

Tôi ngồi lặng yên, buồn và thầm cảm phục tác giả lời ca mới của Quốc ca CSVN. Tôi nghĩ, sự phẫn uất trong lòng tác giả của lời ca mới phải cao ngất Trời cho nên tác giả mới có thể viết được những dòng chữ không thể nào xác thực hơn! 

(https://m.facebook.com/story.p hp?story_fbid=2493093137371637 &id=100000129254400)

Tôi không hiểu người CSVN nghĩ như thế nào khi bài "Quốc ca" của họ bị người dân sửa lời ca để chế nhạo, phỉ báng một cách chính xác về những thủ đoạn phản quốc, bất lương mà lãnh tụ và người CSVN đã và đang âm thầm thực hiện để bán trọn nước Việt Nam cho Tàu cộng? Riêng tôi, nếu bài Quốc ca của đất nước tôi bị sửa lời ca để nhạo bán vì hành động thấp hèn, bán nước của giới lãnh đạo thì tôi sẽ vô cùng đau buồn và tự ái dân tộc trong tôi sẽ “bùng” lên! Còn những người trực tiếp phục vụ dưới lá cờ đỏ sao vàng và thường hát bài Tiến Quân Ca mỗi khi chào cờ như công an và bộ đội cụ Hồ - nhất là bộ đội cụ Hồ “xưa” - nghĩ như thế nào khi nghe bài Quốc ca mới đầy “ấn tượng” và chua chát này? 

Tôi dùng “cụm từ” bộ đội cụ Hồ “xưa” để xác định sự khác nhau giữa bộ đội cụ Hồ trước ngày 30 tháng Tư năm 1975 và bộ đội cụ Hồ sau 1975. 

Đối với tôi, bộ đội cụ Hồ sau 1975 không chịu trách nhiệm về hai cuộc chiến chống Pháp và đánh Mỹ để cướp miền Nam Việt Nam; lại được mặc quân phục hẳn hoi. Bộ đội cụ Hồ sau 1975 cũng không chịu trách nhiệm về cuộc thảm sát Mậu Thân - giết hại khoảng 6.000 thường dân vô tội tại Huế - và những cuộc tấn công quy mô rồi pháo kích trực tiếp vào đoàn thường dân lánh nạn chiến tranh, tạo nên Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quãng Trị, 1972. Bộ đội cụ Hồ sau 1975 không chịu trách nhiệm về những loạt pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy và bệnh viện Long An; những loạt pháo kích hỏa tiễn 120 ly vào đoàn người chạy loạn từ Huế vào Đà Nẵng. Bộ đội cụ Hồ sau 1975 ít cơ cực, ít nguy hiểm và mứt độ tàn ác của họ đối với người miền Nam chúng tôi cũng tương đối ít hơn bộ đội cụ Hồ “xưa”. 

Bộ đội cụ Hồ “xưa” có công “vỹ đại” là đánh đuổi thực dân Pháp và “đánh Mỹ kíu nước” để suốt hơn 40 năm qua, đảng và ban lãnh đạo CSVN bán từng phần, từng phần đất nước Việt Nam cho Tàu cộng! 

Thì ra, tuổi trẻ, máu xương và công khó của các anh bộ đội cụ Hồ “xưa” trong các trận xung phong biển người tại Điện Biên Phủ, cũng như dọc dãy Trường Sơn và trong các cuộc đụng độ ác liệt với các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QL/VNCH) chỉ để cho Nguyễn Phú Trọng và đồng bọn bán trọn nước Việt Nam cho Tàu cộng - kẻ thù truyền kiếp của người Việt Nam! 

Khi biết được ba yếu điểm quân sự quan trọng cuối cùng của Việt Nam - Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc - đã được Nguyễn Phú Trọng và đồng bọn bán cho Tàu cộng, các anh bộ đội “xưa” có đau lòng, có phẫn uất hay không? Hay là vì các anh bộ đội “xưa” bị đảng và “nhà nước” CSVN tuyên truyền, áp đặt chính sách “bần cùng hóa nhân dân” từ xa xưa cho nên các anh đã quen giao vận mệnh của các anh - và ngay cả vận mệnh của đất nước và dân tộc - vào sự chỉ đạo của cụ Hồ, đảng và “nhà nước” CSVN cho nên các anh, dù đau lòng, cũng không dám tỏ thái độ? Các anh có oán hận đảng và “nhà nước” CSVN đã dùng luận điệu tuyên truyền dối trá, lường gạc các anh suốt mấy mươi năm dài để khởi động và theo đuổi hai cuộc chiến không cần thiết, để thiêu rụi cả mấy triệu quân dân người Việt, với chiêu bài chống thực dân Pháp và chống Mỹ hay không? Hay là các anh im lặng vì các anh nghĩ rằng, các anh già rồi, biết sống được bao lâu nữa mà tranh đấu làm gì? 

Hỡi các anh bộ đội cụ Hồ “xưa”! Người già cũng có phương cách của người già để thể hiện lòng yêu nước và biểu lộ niềm tự ái dân tộc. Hơn ai hết, các anh biết rõ những mưu lược, những xảo trá, gian manh, lừa lọc của đảng và nhà cầm quyền CSVN. Các anh hãy vạch rõ tội trạng của đảng và bè lũ CSVN cho người trẻ hôm nay biết để người trẻ hôm nay nhận định và ứng phó với từng hoàn cảnh. Các anh hãy xuất hiện, yểm trợ người trẻ và toàn dân Việt Nam để nhân cơ hội này phá tan chế độ tàn ác, sắt máu, vô lương và phản quốc của đảng và người Cộng Sản Việt Nam! 

Nếu các anh bộ đội cụ Hồ “xưa” thực hiện được vài điều như tôi đã đề nghị ở phân đoạn trên thì, tôi nghĩ, linh hồn của người thân, của bạn hữu và đồng đội của các anh đã tử trận trong hai cuộc chiến vừa qua - do CSVN chủ xướng - sẽ bớt ngậm ngùi! 

Khi cuộc chiến thứ hai chấm dứt vào ngày 30-04-1975, tôi cảm thấy tội nghiệp cho các anh bộ đội cụ Hồ “xưa”. Ai đời, sau khi “giải phóng” miền Nam khỏi “ách kềm kẹp” của Mỹ Ngụy, các anh bộ đội cụ Hồ “xưa” - với bộ bà ba đen bạc màu, nón cối, dép râu - lại tịch thu của Ngụy từng con gà, con vị, con búp bê, cái đài (radio), xe đạp rồi “hồ hởi” quảy trên vai để lên xe đem về Bắc khoe với bà con trong Xã hội Chủ nghĩa! 

Thật ra, không phải đợi đến sau 30-04-1975 tôi mới thấy được hình ảnh bết bát, quá tệ của bộ đội cụ Hồ “xưa” mà tôi đã biết bộ đội cụ Hồ “xưa” khởi đầu là những anh chị nông dân chất phát, không có học vấn cùng với sự hợp tác rất nhiệt thành của thanh niên trí thức miền Nam thoát ly ra “vùng giải phóng” - trong số này có Ba tôi - để chống Tây. 

Với hoài bão chống Tây, nhưng Ba tôi chỉ được giao trọng trách lo về văn nghệ và động viên cũng như đả thông tư tưởng của cán bộ, bộ đội và mỗi tối dạy Pháp văn cho cán bộ cao cấp tại làng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, thuộc liên khu V. (Mời đọc tại link này để thấy rằng tôi không thiên lệch. (http://www.diepmylinh.com/qua-lang-son-tinh

Chính thời gian sống tại làng Sơn Tịnh chị em tôi mới thấy được sự “can đảm, anh hùng?” của nam nữ du kích và bộ đội cụ Hồ. Trong ánh mắt trẻ thơ của chị em tôi - hai đứa bé thành thị - hình ảnh nam nữ du kích và bộ đội cụ Hồ với bộ đồ bà ba đen rộng thùng thình, đội mũ cối hoặc mũ tai bèo, chân mang dép râu và vai đeo cây súng, trở thành hình ảnh vừa kỳ lạ vừa quái dị! 

Tôi không nhớ, không biết loại súng mà du kích và bộ đội “xưa” tại làng Sơn Tịnh thường mang trên vai là loại súng gì. Nhưng tôi nhớ hình dáng cây súng có nòng súng quá dài so với thân người nhỏ nhắn, gầy gò của người dân quê trong giai đoạn thi hành chính sách “tiêu thổ kháng chiến”. Vì chiều dài của cây súng, du kích và bộ đội “xưa” lúc nào cũng phải đeo cây súng trong tư thế nòng súng chỉa lên Trời thì mới có thể đi đứng được. 

Mỗi khi máy bay “bà già” - danh từ thời đó thường dùng để chỉ phi cơ quan sát - “nhởn nhơ” bay lượn trên không trung thì nam nữ du kích hoặc bộ đội cụ Hồ đưa súng lên, không cần nhắm, “thảy cái bùm” rồi nhanh chân chui xuống hầm, trốn. 

Lần nào cũng vậy, sau những hành động “anh hùng?” của du kích và bộ đội cụ Hồ thì chiếc “bà già” cũng bay mất. Không lâu sau đó, máy bay oanh tạc bay đến, bắn, thả bom nát cả khu vực rồi nhiều mái tranh nghèo hừng hực lửa! 

Sau khi oanh tạc cơ rời mục tiêu, gia đình tôi chui ra khỏi hầm. Chị em tôi kể cho Ba tôi nghe về hành động “anh hùng, cảm tử?” của nam nữ du kích quân và bộ đội cụ Hồ. Ba tôi cười “nửa miệng” rồi giải thích: - Đó không phải là hành động anh hùng. Đó là hành động điên rồ vì ngu xuẩn, dốt nát và thiếu hiểu biết, đã vô tình “lạy ông tôi ở bụi này” để chỉ điểm cho tụi Tây đưa phi cơ oanh tạc đến “cày” nát và đốt cháy thôn làng! 

Chị em tôi buồn hiu vì thất vọng! Tối đó, thế nào cũng có anh bộ đội đến nhà, yêu cầu Ba tôi phải viết bài, lên án gắt gao sự dã man, tàn ác của bọn thực dân Pháp để ngày hôm sau đưa cho cấp trên đọc trong buổi kiểm thảo. 

Sau này, sống tại miền Nam và đủ hiểu biết, tôi thấy, mỗi khi nghe radio, đài của CSVN bảo rằng “Đồng chí gái chỉ với cây CKC mà hạ được phi cơ phản lực của Mỹ Ngụy”, Ba tôi cười khẩy, lắc đầu, tắt radio, bảo: 

- Đồ ba xạo! 

Chị em tôi lại hỏi Ba tôi: 

- Tại sao Ba bảo là họ xạo? 

- Tốc độ máy bay phản lực của Mỹ chỉ có súng tầm nhiệt SAM mới “trị” được thôi. 

Trên đây là chuyện “ba xạo xưa” của người CSVN; còn chuyện “ba xạo” gần nhất, “lẫy lừng” nhất thế giới là chuyện Trịnh Xuân Thanh - đại biểu Quốc Hội CSVN khóa XIV và cũng là một cán bộ cao cấp - bị truy tố về tội tham nhũng. Bộ Công An ra quyết định truy nã Trịnh Xuân Thanh trên toàn quốc và truy nã quốc tế. Trịnh Xuân Thanh đã trốn được sang Đức rồi mà Trịnh Xuân Thanh còn “tự động?” vượt không gian, trở về Việt Nam để “đầu thú” thì không ai có thể không cười! 

Không thể nào viết cho hết sự gian xảo, lưu manh và “ba xạo” của người CSVN được, cho nên, tôi xin gửi đến Người Trẻ Việt Nam hôm nay, các anh bộ đội “xưa” và tất cả người Việt Nam thân thương - đã, đang và sẽ tiếp tục thể hiện lòng yêu nước cũng như bộc lộ niềm tự ái dân tộc bằng cách triệt để ủng hộ và tham gia các cuộc biểu tình tại Quê Nhà - vài phân đoạn trong bản hùng ca Khỏe Vì Nước của nhạc sĩ Hùng Lân, sáng tác tại miền Nam, trước 1975: 

“… Khoẻ vì nước chí khí cương kiên
Giống Lạc Hồng uy hùng vô biên
Trong khốn nguy can trường sống thác ta coi thường
Việt Nam thanh niên anh dũng muôn năm.

Thanh niên ơi, hồn thiêng núi sông đợi chờ
Nơi tay ta toàn dân ngóng trông từng giờ
Mang máu anh hùng ta đừng làm nhơ máu anh hùng
Trai đất Việt phải nêu đèn sáng thế giới soi chung.

Dân sinh yếu nhược lôi ta đến đường vong quốc
Dân sinh dũng cường đưa ta tới đài vinh quốc
Mau gây lấy phong trào khoẻ khắp nơi xa gần
Cho dân trí quật cường và hưng phấn
Nghìn đời không mờ ánh Duy Tân!” 

Tình yêu nước trong lòng người miền Nam chúng tôi được khơi động, tích lũy và vun bồi từ nền giáo dục đầy đạo đức, nhân bản và những bản hùng ca như Khỏe Vì Nước, Cô Gái Việt, Bach Đằng Giang, Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam, Học Sinh Hành Khúc, v.v… Nhờ vậy, dưới thời VNCH - dù bị bộ đội “xưa” tấn công hết sức dã man và ác liệt trên toàn lãnh thổ miền Nam - Quân Lực VNCH cũng vẫn giữ vững bờ cõi. Không một tất đất nào của VNCH bị ngoại ban làm “đặc khu” - ngoại trừ Hoàng Sa. (Muốn biết vì sao VNCH phải mất quần đảo Hoàng Sa, mời xem link này: http://www.diepmylinh.com/gop-y-voi-le-ma-luong 

Người CSVN đừng vội đem Chợ Lớn ra để kết tội VNCH, nhé! Người Tàu Chợ Lớn sống hòa đồng với người Việt. Người Tàu Chợ lớn tuân thủ mọi luật lệ của chính phủ VNCH. Quan trong hơn cả là: Người Tàu Chợ Lớn cũng nhập ngũ hoặc thi hành lệnh động viên của VNCH; rất nhiều người Tàu Chợ Lớn trở thành sĩ quan trong tất cả quân binh chủng QL/VNCH. Nếu cần, tôi có thể dẫn chứng vài sĩ quan Hải Quân gốc Chợ Lớn từng phục vụ tại các đơn vị tác chiến Hải Quân VNCH. Ngược lại, rất ít người Tàu Chợ Lớn bỏ vùng Quốc Gia để trốn theo Việt Cộng. 

Còn bây giờ - sau khi người CSVN đánh cho "Mỹ cút Ngụy nhào" để áp đặt tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện kế hoạch 100 năm trồng người cho toàn dân nước Việt Nam - tại sao người dân lại dựa theo bài Quốc ca của đảng và người CSVN để nêu ra gần như đầy đủ, trọn vẹn những hành động phản quốc, bán nước của đảng và người CSVN? 

Câu hỏi trên đây chỉ có các “đồng chí” - và cũng đồng lòng bán nước - Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang và Nguyễn Thị Kim Ngân mới có thể giải thích được! 

11.07.2018

Toàn dân tiếp tục xuống đường tạo phong trào bất tuân bạo quyền

Nguyên Thạch (Danlambao) - Con đường đấu tranh để thể hiện ý chí của dân tộc sẽ còn tiếp tục nhằm tạo thành “Phong trào toàn dân hành động”. Phong trào này chỉ chấm dứt khi đảng toàn trị cùng chế độ tay sai của nó bị tiêu diệt bởi lực của toàn dân hoặc bởi sự tự nguyện rút lui của một chế độ không có chính nghĩa.


Xuống đường biểu tình để tỏ thái độ bất đồng với đảng độc tài cầm quyền sẽ trở thành phong trào mà toàn dân khắp mọi miền đất nước muốn thể hiện ý chí bất tuân dân sự khi người dân cả nước đã bị ĐCSVN dồn vào đường cùng.

Giữa hai thái độ ôn hòa và bạo động, tự nó không có bất cứ lằn ranh nào phân định rõ rệt khi những yếu tố khách quan đầy tính bất ngờ xảy ra. Khi tận thâm tâm của người dân đã dồn nén nhiều nỗi uất hận... cũng như khinh ghét một chế độ mà họ đã nhận ra rằng là một thứ cơ chế độc tài, toàn trị và lộng hành.

Sức chịu đựng của con người là hữu hạn, mọi sự vụ vượt qua khỏi giới hạn ấy thì phản ứng khó lường trước được là nguy hiểm đến mức độ nào, nhất là sự căm hận đã được kìm nén từ lâu, nó chỉ chờ dịp bộc phát với cường độ khó đoán.

ĐCSVN phải biết rằng khi sử dụng những hình ảnh dễ gây phản cảm, tức tối như dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, khiên, chắn, côn an, côn đồ, CSCĐ... là những thứ chỉ làm tăng thêm sự khinh ghét và gây tức giận cho người dân hơn là làm cho họ sợ hãi. Những hình ảnh này, có thể tạm thời khiến cho người dân phải thối lui nhưng điều đó không có nghĩa là họ chịu thua, mà ngược lại sự nung nấu căm hờn ngày càng tăng theo chiu dài của thời gian cho đến lúc lòng dân như triệu đợt sóng ngầm sẽ trỗi dậy cuốn sạch cả guồng máy chuyên quyền ấy.

Tôi tin rằng khối người dân Việt Nam nói chung và giới thanh niên nói riêng sẽ đủ thông minh để áp dụng và thay đổi chiến thuật tùy thời, tùy nơi, tùy lúc. Những phương cách hành động khác nhau được hiểu ngầm bởi không tiện nêu ra ở phạm vi một bài báo cho công chung đọc.

Con đường đấu tranh để thể hiện ý chí của dân tộc sẽ còn tiếp tục nhằm tạo thành “Phong trào toàn dân hành động”. Phong trào này chỉ chấm dứt khi đảng toàn trị cùng chế độ tay sai của nó bị tiêu diệt bởi lực của toàn dân hoặc bởi sự tự nguyện rút lui của một chế độ không có chính nghĩa. Một chế độ mà xem người dân là kẻ thù phải trang bị trực thăng, xe tăng để trấn áp.
11.07.2018

Sống và thể hiện tinh thần đa nguyên

“…Khắc phục những di hại do Đảng Cộng sản để lại là trọng trách nặng nề của thể chế dân chủ đa nguyên tương lai của Việt Nam…”
danguyen_sactoc
Việt Nam, một đất nước đa nguyên, đa sắc tộc
Đảng CSVN thường lập luận cho rằng dân chủ đa nguyên sẽ đẩy đất nước vào cảnh hỗn loạn và một số người khác còn cho rằng nhận thức chính trị của người Việt chưa đủ cao để áp dụng chế độ dân chủ đa nguyên thậm chí còn quyết đoán rằng trình độ dân trí của người Việt quá thấp để có thể hiểu thế nào là dân chủ chưa nói đến đa nguyên.
Nước Việt Nam đã không may rơi vào sự khống chế của đảng Cộng Sản vì hầu hết trí thức Việt Nam trong những thập niên 1950 và 1960 say mê lãng mạng tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác Lê, xem đây là phương thuốc nhiệm màu giúp Việt Nam thoát ra khỏi ách thống trị của Pháp.
Họ không thấy chủ nghĩa cộng sản chỉ là một phương tiện giúp cho một băng đảng vô văn hóa, vô tổ quốc cướp chính quyền và áp đặt quyền lực lên đầu người dân bằng khủng bố và ám sát.
Châu Âu đã sớm nhận ra sức tàn phá của chủ nghĩa Mác Lê và kể từ năm 1989, sau khi Liên Xô tan rã, các nước Đông Âu đã thi nhau lấy lại độc lập và phục hồi lại tinh thần đa nguyên. Vì chỉ có tinh thần đa nguyên mới có thể đánh bại chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa theo mô hình nhất nguyên độc đảng.
Nói về Đa Nguyên người ta thường nghĩ đến nhiều phe nhóm, nhiều tranh cãi nhiều quyền lợi cấu xé lẫn nhau mà ít ai biết đến Đa Nguyên là một tinh thần cần được bồi đắp và xây dựng. Gần đây thế giới đã khám phá thêm những nguyên lý của Đa Nguyên để áp dụng vào đời sống xã hội và chính trị.
Thế nào là đảng chính trị
Trước khi đi sâu vào việc phân tích tinh thần Đa Nguyên tưởng cũng nên nhắc lại một câu mà chúng ta thường nghe và dùng làm khuôn mẫu trong phép hành xử chính trị đó là : Thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, để đem lại cơm no áo ấm cho người dân và xây dựng xứ sở. Người làm chính trị chắc chắn phải kinh qua giai đoạn thành ý chánh tâm tức giai đoạn xây dựng cho mình một ý thức, một hướng đi đúng đắn nhất. Sang giai đoạn tu thân cổ nhân không nói rõ phải mất bao nhiêu năm để hoàn tất. Nhưng nhìn vào thực tế, con người phải luôn luôn tu thân cho đến khi từ giã cõi đời. như vậy phải hiểu rằng trong tiến trình tu thân có cả hai phần vừa tu thân, vừa xây dựng tổ chức.
Nhưng muốn biến ý tưởng đó trở thành hiện thực thì phải làm sao ? Để trả lời câu hỏi này có lẽ phải tìm hiểu lý do phát sinh ra những hệ thống đảng phái. Khi xác quyết sự bất đồng quan điểm và tính đa dạng của tư tưởng là những yếu tố cần thiết của cơ cấu xã hội và nhà nước, mọi người đều hiểu ngầm rằng cơ cấu chính trị của nhà nước bao gồm những thành viên của các đảng phái và cũng là nhân tố của xã hội trong lòng các tổ chức luôn có những nhóm tranh đua gay gắt với nhau. Trong ngôn ngữ chính trị người ta gọi là phe phái (factions). Nhưng phe phái làm sao biến thành đảng phái ?
Danh xưng thay đổi thì bản chất cũng phải thay đổi theo.
Danh xưng đảng xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ 18 lần đầu tiên qua bài tham luận “Thoughts on the cause of presents discontents” (một vài suy nghĩ về nguyên do những bất đồng hiện tại) năm 1770. ông Edmund Burke khẳng định rằng các đảng không những cần thiết mà còn đáng quý trọng (respectables). Ông định nghĩa: “Đảng phái là một tập thể những cá nhân cùng chung một mục đích và lòng cam kết, kết hợp lại nhằm phát triển những quyền lợi của quốc gia trên căn bản của nguyên tắc đặc thù mà họ đều đồng ý. (1) Ông Burke đã phân biệt rõ rệt đảng phái và phe phái theo ông phe phái biểu tượng cho một cuộc chiến tranh một cuộc tranh giành nhỏ mọn và tham lam mong tìm kiếm địa vị và bổng lộc trong khi đảng phái là những mối dây liên kết đáng kính (honorable connections).  Việc chuyển hoán từ giai đoạn phe phái sang đảng phải hàm chứa tinh thần Đa Nguyên. Các đảng phái phải được xem là thành phần của một tổng thể bao gồm những thành tố tích cực của xã hội. Chính vì vậy độc đảng đi ngược với lại tinh thần Đa Nguyên. Đa nguyên và đa đảng phát sinh cùng một lúc. Các đảng phái là sản phẩm của Đa Nguyên vì Đa nguyên cho phép sự hình thành của các đảng chính trị.
Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiêu diệt hết các đảng để trở thành đảng duy nhất cầm quyền. Đảng Cộng sản không có khả năng thể hiện tinh thần phục vụ của một đảng chính trị theo đúng ý nghĩa của nó, do đó đã đưa dân tộc Việt Nam vào sự kém cỏi đáng lý không thể có vì tinh thần bao dung của người Việt. Ngày nay khi sử dụng danh từ đảng người ta nghĩ ngay đến đảng cộng sản với tất cả những sự tàn ác của nó trong quá khứ và ngay trong hiện tại. Danh từ Đảng dưới nhãn quan của người Việt mang một ý nghĩa xấu. Ngày nay khi đề cập đến chữ đảng người ta thường đồng hóa nói với những thủ đoạn bẩn thỉu của đảng Cộng sản như gây áp lực, đe dọa, ám sát, thủ tiêu những ai không theo đường lối của họ. Chúng ta cần phục hồi lại ý nghĩa nguyên thủy tốt đẹp danh từ đảng mà ông Burke đã dành cho nó. Đảng là một bước cần thiết để kết hợp những con người cùng chia sẻ mục đích chung thực hiện cương lĩnh của tổ chức.
Đa Nguyên trên bình diện tư tưởng, xã hội và chính trị
Nếu hiểu đa nguyên là nhiều, nghĩa là hơn một, thì chúng ta đã tự giới hạn sự hiểu biết của mình. Cần phân biệt Đa Nguyên trên 3 bình diện :
Thứ nhất - Tinh thần Đa Nguyên
Phong cách văn hóa đa nguyên là phong cách thế quyền đối nghịch với phong cách thần quyền. Đã là thế quyền thì không thể nào nhất nguyên được.
Phong cách văn hóa thần quyền thì ngược lại, nó hàm chứa một chân lý duy nhất, mang tính nhất nguyên. Phong cách đa nguyên dựa trên tinh thần bao dung. Đa Nguyên chủ trương đa dạng thay vì đồng dạng, bất đồng thay vì đồng nhất, thay đổi thay vì ù lì. Đa Nguyên tôn trọng sự đa dạng của những nền văn hóa khác biệt nhưng không nhất thiết tạo thêm những những dị biệt mới. Đa Nguyên hỗ trợ và bảo tồn một xã hội mở không khép kín. Đa Nguyên giữ gìn sự ổn định không tạo hiềm khích giữa các nền văn hóa.
Tinh thần Đa Nguyên đòi hỏi một sự tương kính hỗ tương vì nó phát xuất từ tinh thần bao dung do đó đối nghịch hoàn toàn với tinh thần nhất nguyên (mang tính bất bao dung, không công nhận hay hận thù sự khác biệt thêm vào đó là sự ngạo mạn tự xem mình vượt trội trên hết mọi nếp tư duy, mọi văn hóa khác).
Tinh thần Đa Nguyên cố gắng tạo cơ hội phát triển đồng đều cho mọi người, cho mọi thực thể (entité), biết tự trọng và có tinh thần tương kính hỗ tương nghĩa là không có tình trạng Thập Nhị Sứ Quân, mạnh được yếu thua, được làm vua thua làm giặc khi áp dụng vào thực tế.
Sự tách biệt văn hóa và kỳ thị văn hóa dẫn đến bộ tộc hóa nghĩa là thu nhỏ và biến văn hóa của cả một nước thành văn hóa của riêng một bộ tộc mình. Sự kiện này đã diễn ra khi đảng Cộng Sản bắt mọi thành phần xã hội phải theo chế độ xã hội chủ nghĩa, đi ngược với tinh thần Đa Nguyên.
Đa Nguyên tạo nên sự hài hòa giữa các thành phần trong xã hội nên không thể có sự hỗn loạn như đảng CSVN vẫn thường rêu rao.
Chính đảng cộng sản cầm quyền hiện nay đang ngụy biện cho rằng đa nguyên dẫn đến hỗn loạn để duy trì chế độ độc đảng bảo vệ quyền lợi của thiểu số cầm quyền, bất chấp và chà đạp quyền lợi của những tầng lớp xã hội Việt Nam. Chính những bất công này sẽ là mầm mống của một cuộc nổi dậy do chính đảng cộng sản gây nên.
Những nước cộng sản Đông Âu đã thi nhau tan rã mà không có một giót máu nào đổ ra, không hề có sự trả thù nào cả. Vì họ đã thấm nhuần tinh thần đa nguyên.
Thứ hai - Đa Nguyên trên bình diện xã hội
Khi áp dụng đa nguyên vào xã hội không nên nhìn những thứ bậc giai cấp hoặc đẳng cấp là do đa nguyên sản sinh. Trên thế giới này không thể nào có được một xã hội trong đó tất cả mọi thành phần đều thực sự bình đẳng với nhau, ngoại trừ trong những tiểu thuyết hoang tưởng. Không phải xã hội nào cũng có đa nguyên, tất cả mọi xã hội đều có sự phân chia và luôn có bất bình đẳng. Tinh thần đa nguyên tìm cách giảm thiểu những bất bình đẳng đó. Đa Nguyên không phải là một danh từ dùng để thay thế “sự phức tạp của cơ cấu” (complexité structurelle) nó là mô hình đặc biệt của cơ cấu xã hội.
Một xã hội bị phân chia ra thành từng mảnh nhỏ không phải là một xã hội đa nguyên. Xã hội Đa Nguyên gồm nhiều hiệp hội đa dạng nhưng những hiệp hội này phải được thành lập theo tinh thần tự nguyện nghĩa là không có sự ép buộc hay thừa kế và nhất là không có tính biệt lập. Những hiệp hội đa dạng này có tính cởi mở, tiếp nhận những khuynh hướng khác biệt nghĩa là có sự liên đới phụ thuộc (interdépendant), phụ thuộc lẫn nhau. Một xã hội đa nhóm (multigroupe) là một xã hội đa nguyên. Nhưng những nhóm này không được tạo dựng một cách máy móc trong sự cưỡng ép dù dưới bất cứ hình thức nào, hiểu như vậy thì cách tổ chức của các xã hội Phi Châu hiện nay không phải là một xã hội đa nguyên và hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ không phải là một hệ thống xã hội Đa Nguyên.
Sự thiếu vắng giao lưu văn hóa là một tiêu chuẩn để đo lường tinh thần Đa Nguyên của xã hội đó. Tất cả những xã hội xây dựng chung quanh ý niệm bộ tộc. sắc tộc, đẳng cấp tôn giáo hoặc bất cứ nhóm nào mang tính cách truyền thống đều không được coi là những xã hội Đa Nguyên.
Đa Nguyên chỉ được thực hiện khi những lằn ranh phân chia các cộng đồng dưới bất cứ hình thức nào trong một nước không còn nữa. Khi hố ngăn cách giữa các thành phần xã hội ngày càng sâu rộng một số thành phần xã hội đó sẽ tìm cách kết hợp với nhau trên căn bản sắc tộc tôn giáo hoặc ngôn ngữ và tìm cách áp đặt quyền lực của mình trên những thành phần khác : Lúc đó xã hội Đa Nguyên mất đi bản thể nhường chỗ cho những thế lực cực đoan chiếm dần ưu thế để trở thành nhất nguyên. Chủ trương chỉ có dân tộc ta là nhất, đứng trên mọi chủng tộc khác như thời Đức Quốc xã của Hitler đưa đến phong trào hủy diệt dân Do Thái. Chủ trương chỉ có tôn giáo ta là duy nhất đưa đến những cuộc thánh chiến khốc liệt nhất đến nay vẫn chưa dứt. Nước Iran là một vị dụ nhà nước thần quyền rõ ràng nhất.
Thứ ba - Đa nguyên trong lĩnh vực chính trị
Trong lãnh vực này tinh thần Đa Nguyên hàm chứa một sự phân quyền dựa trên căn bản đa dạng của những nhóm độc lập nhưng không biệt lập. Xin nhắc lại nhờ tinh thần đa nguyên chính trị mà các phe phái đã trở thành những đảng phái với tất cả ý nghĩa tốt đẹp đó. Triết lý Đa Nguyên ảnh hưởng đến thỏa hiệp và tranh chấp. Khi một cuộc tranh chấp biến thành một cuộc chiến, tinh thần Đa Nguyên không còn được tôn trọng nữa. mọi cuộc tranh luận chấm dứt nơi đây. Trọng điểm của thế giới đa nguyên là đi tìm những đồng thuận giữa những quan điểm bất đồng và thỏa hiệp giữa những xung đột quyền lợi.
Tương quan giữa tinh thần đa nguyên và nguyên tắc đa số (majority rule) cũng cần minh định lại. Đa Nguyên từ chối và không chấp nhận sự áp đảo và tính độc đoán của đa số. Điều này không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc đa số trong việc thi hành và ban hành quyết định, một tiêu chuẩn trong sinh hoạt dân chủ. Đa Nguyên bảo đảm nguyên tắc đa số giới hạn nghĩa là đa số phải tôn trọng thiểu số như vậy quyền lực của đa số nằm trong giới hạn của tinh thần đa nguyên.
Đa Nguyên ngay từ ban đầu tách biệt thế giới thế quyền và thần quyền để không ai có toàn quyền sinh sát trên người dân. Với thời gian những giới hạn này ngày càng quan trọng hơn nhường chỗ cho những tranh đấu chính trị ôn hòa đảm bảo tính mạng và tài sản của những người tranh chấp. Nói cách khác kẻ thua cuộc có thể an tâm về nhà mà không sợ bị ám hại.
Tinh thần bao dung, giao ước thỏa thuận và các cộng đồng
Muốn hiểu tinh thần Đa Nguyên cũng cần phải hiểu tinh thần bao dung, tinh thần thỏa hiệp, sự bất đồng và sự xung đột. Tinh thần bao dung (tolé rance) không cho phép chúng ta có thái độ thờ ơ lãnh đạm vì sẽ không có phản ứng. Nhưng bao dung không phải là ba phải chấp nhận dễ dàng những sai lầm không căn cớ. Ông J.R.Lucas giải thích như sau : “Tinh thần bao dung luôn ở thế căng thẳng và không thể nào toàn diện được khi một người đã bám víu vào một điều gì người đó sẽ cố gắng tìm cách thực hiện điều đó nếu không chúng ta không tin người đó. Nhưng người đó cũng không tìm cách thực hiện điều này bằng mọi cách với bất cứ giá nào”. (2)
Như vậy bao dung có thể co giãn đến mức độ nào? Có ba tiêu chuẩn để xét mức độ chịu đựng của bao dung. Thứ nhất là phải tìm ra những nguyên do dẫn đến bất bao dung nghĩa là không cho phép giáo điều (dogmatisme) vì giáo điều luôn luôn bất bao dung. Thứ hai là nguyên tắc không được hãm hại nghĩa là không dung túng những hành động gây thiệt hại và dị hại đến người khác. Thứ ba là sự hỗ tương tinh thần có qua có lại vì khi bày tỏ tinh thần bao dung ai cũng mong đợi đối tác cùng hành xử tương tự như vậy. (3)
Về những giáo ước hay những thỏa thuận chúng ta có thể nhận diện rõ rệt đây là một sự tiếp nhận đơn giản, một đồng thuận có ý thức, không phải là một sự tán đồng hay hỗ trợ tự nhiên. Đây là một sự chia sẻ dưới hình thức này hay dưới hình thức khác nhằm tạo lập một sợi dây liên kết. Định nghĩa này biểu hiện rõ mối tương quan giữa ý niệm thỏa thuận và ý niệm cộng đồng. Cộng đồng cũng có thể được định nghĩa như một sự chia sẻ qua hình thức này hay hình thức khác để tạo nên một mối dây liên kết. Ngày nay chúng ta không thể định nghĩa đơn vị chính trị bằng danh từ Nhà nước - Quốc gia.
Phải trở về đơn vị nguyên thủy có trước sự hình thành của những cơ cấu xã hội chính trị đơn vị đó chính là cộng đồng mặc dù Nhà nước - Quốc gia vẫn là một yếu tố quan trọng. Nó được tạo lập vào thế kỷ thứ 19 và nó là nguyên tắc tổ chức và thống nhất quốc gia ngày nay đặc biệt là tại Châu Âu. Những quốc gia vào thời trung cổ phần đông được cấu tạo trên cơ cấu ngôn ngữ. Quốc gia Đức bao gồm những ai nói tiếng Đức và cứ như thế mà quốc gia được phân định. Nhà nước - Quốc gia là một ý niệm được tạo dựng vào thời cực thịnh của phong trào Lãng Mạn (romantisme) và được coi là một thực thể không chỉ giới hạn ở yếu tố ngôn ngữ. Trong hình thức trọn vẹn của nó, ý niệm Nhà nước - Quốc gia (Etat – Nation) là một thực thể hữu cơ thể hiện qua tinh thần dân tộc được thấm nhuần bởi tinh thần ái quốc và hơn thế nữa, trong hình thức cực đoan của nó, được thể hiện qua huyết tộc, qua liên hệ sắc tộc. Trên căn bản này, quốc gia biến thành chủ nghĩa quốc gia. Những Nhà nước - Quốc gia xuất hiện ở Châu Âu trong những năm 1830 và 1848 đã tự xác định vị trí của mình qua yếu tố ngôn ngữ và lòng ái quốc. Quốc gia là một ý chí thể hiện tinh thần độc lập thay thế cho những tập hợp quy tụ xung quanh một lãnh chúa hay một triều đại. Với sự thành lập của Nhà nước - Quốc gia, việc chuyển nhượng “nhân dân” hay “dân tộc” được xem như những thành phần thua cuộc hay là tôi tớ của một vương chúa không thể xảy ra nữa.
Ngày nay Nhà nước - Quốc gia không còn là yếu tố được bảo tồn như một đơn vị tối ưu về địa lý chính trị (géopolitique) và nó đang tan biến ngay trong nội bộ một nước cũng như trên phương diện toàn cầu. Ý niệm “cộng đồng quốc gia” càng suy yếu bao nhiêu người ta cần phải trở về ý nghĩa nguyên thủy của một cộng đồng. Khi một siêu cơ cấu một quốc gia, một đế quốc hoặc một triều đại sụp đổ người ta thường trở về cơ cấu nguyên thủy của một cộng đồng trong đó người ta dễ dàng kết hợp lại với nhau để được hoà nhập (appartenance) thì vai trò và chỗ đứng của Nhà nước Quốc gia bị công phá từ mọi phía và vì Việt Nam chưa xây dựng xong một quốc gia đúng nghĩa, quan niệm về đất nước phải như thế nào? Chúng ta phải xem đó là một không gian liên đới giữa những con người hiểu nhau quý trọng nhau hợp tác với nhau để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Một cách ngắn gọn Việt Nam phải là đất nước xây dựng trên các cộng đồng.
Thứ tư - Việt Nam đã có Đa Nguyên chưa?
Hiện nay chính quyền Việt Nam dưới sự lãnh đạo (có lẽ là cuối cùng của đảng CSVN) của ông Nguyễn Phú Trọng đang làm nhiều cố gắng để chứng tỏ với thế giới bên ngoài rằng Việt Nam là một nước độc đảng không cần đa nguyên. Ông Trọng quên rằng trước khi đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Việt Nam đã từng là một nước đa nguyên vì Việt Nam đã có 54 sẵc tộc chung sống trên mảnh đất chữ S một cách hài hòa xuyên nhiều thế kỷ (4). Nhà nước Cộng sản Việt Nam đại diện cho cộng đồng người kinh đang thi hành chính sách đồng hóa và ép buộc các sắc tộc ít người phải từ bỏ tập tục tập quán và những nét văn hóa đặc thù của mình để họ phải theo một khuôn mẫu có tính cách giáo điều của cái gọi là xã hội chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn đi ngược lại với với tinh thần Đa Nguyên. Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã và đang tạo nên những mầm mống chia rẽ một ngày một trầm trọng trong các cộng đồng, nhân tố cấu tạo đất nước Việt Nam. Chính vì chủ trương giáo điều và từ đó phơi bày tính chất bất bao dung nên đảng cộng sản Việt Nam đã và đang gây nên những hận thù giữa các cộng đồng. Khắc phục những di hại do Đảng Cộng sản để lại là trọng trách nặng nề của thể chế dân chủ đa nguyên tương lai của Việt Nam.
Nguyễn Gia Thưởng
Ghi chú:
(1) “Party is a body of men united for promoting by their joint endeavours the national interest, upon some particular principle in which they are all agreed”. Trích The Works of Edmund Burke, Boston, Little Brown, 1839, Vol 1, p. 425-426, www.econlib.org.
(2) The Principles of Politics, J.R. Lucas, Oxford, Clarendon Press, 1985, p 296-301
(3) Pluralisme, Multiculturalisme et Etrangers, Giovanni Sartori, Editions des Syrtes, 2003.
(4) Vietnam, pays pluri-ethnique et pluri-culturel, Nguyễn Văn Huy et Lưu Hùng (trích tập san “Vietnam-Art et Cultures de la préhistoire à nos jours” (Việt Nam, Nghệ thuật và Văn hóa từ thời tiền sử đến nay) phát hành trong cuộc triển lãm do các Viện Bảo tàng Nghệ Thuật và Lịch sử tổ chức từ ngày 17/12/2003 đến 29/2/2004

Chẳng lẽ dân tộc Việt Nam lại xứng đáng làm nô lệ?

“..Trí thức Việt Nam phần nào giống như những đứa trẻ, khi có điều gì bất bình thì sẽ ầm ầm lên tiếng, đạp chân đành đạch, được một lát thì mệt mỏi, lau nước mắt và buông xuông, ngủ một giấc tỉnh dậy như không có gì xảy ra…”
no_le
Cả tuần nay lên FB không thấy ai nói về đặc khu kinh tế nữa, có lúc thấy lòng hoang vu lạ lùng. Tôi tự hỏi hay là mình ám ảnh với “bạn vàng” nên trở thành hoang tưởng, sợ bóng sợ gió quá mức và có lẽ nên thư giãn để vui vẻ với cuộc sống như bao người? 
Nhưng bao bài báo nước ngoài nói về bẫy nợ Trung Quốc, ý đồ Một Con Đường, Một Vành Đai, động thái quân sự hoá Biển Đông, việc đội lốt người Việt để thôn tính những dự án bất động sản ở Việt Nam, những dự án Trung Quốc trúng thầu bị chầy bửa, kéo dài thời gian, đội vốn đầu tư, việc 2 lần công ty Repsol phải ngừng khoan khai thác dầu, đầu óc mưu lược thâm sâu của người Trung Quốc và thế nước đang lên hừng hực của họ... tất cả đều mách bảo tôi rằng hiểm hoạ Trung Quốc là có thật, rất thật và rất gần.
Tôi sợ một ngày bước ra đường ở Hà Nội tôi sẽ có cảm giác như ở Nha Trang bây giờ khi mà tiếng Tầu xủng xoảng bên cạnh và các biển báo chữ Tầu, cũng kiểu mầu xanh đỏ loè loẹt tôi vốn ghét cay ghét đắng sẽ hiện diện khắp nơi.
Hà Nội xưa cũ, Hà Nội âm thầm và lịch lãm giờ đã trở nên xô bồ, bụi bặm nhưng nếu đà này khi các đặc khu kinh tế đã được mở cửa, sự ảnh hưởng về văn hoá, mầu sắc, âm thanh, ngôn ngữ của Tầu Cộng sẽ còn làm Hà Nội xa lạ hơn nữa. 
Tôi buồn và thấy mình đã lạc lõng rồi, trong môi trường bạn bè ngoài đời và trên cõi mạng. Không còn ai nói về đặc khu kinh tế nữa. Rồi mấy tháng nữa, tất cả sẽ lại ầm lên khi quốc hội rậm rịch bấm nút thông qua, rồi tất cả sẽ lại lặng dần đi như chưa hề có gì xảy ra. Điều gì ở Việt Nam cũng như vậy cả, không có cái gì được theo đuổi một cách nghiêm túc, sâu sắc và lâu dài.
Trí thức Việt Nam phần nào giống như những đứa trẻ, khi có điều gì bất bình thì sẽ ầm ầm lên tiếng, đạp chân đành đạch, được một lát thì mệt mỏi, lau nước mắt và buông xuông, ngủ một giấc tỉnh dậy như không có gì xảy ra.
Thế là WC, thế là du lịch, thế là bia rượu, thế là triết học với văn học, thế là tất cả những thứ cao siêu thánh thiện xa rời chốn trần tục... và kệ con mẹ nó rất cả những gì đau đầu khó nuốt, ta cứ an vui mà hưởng cuộc đời.
Còn với tầng lớp ít chữ hơn thì luật ANM hay luật đặc khu thì cũng chỉ là những thứ xa xôi không ảnh hưởng tới bữa lòng lợn chiều nay. Nói ra làm gì mệt người, trời đã nóng nực quá rồi. Cứ chén rượu, miếng dồi lợn là đời đẹp rồi còn gì?
Tất nhiên, nói vậy không có nghĩa là ta cứ phải đùng đùng như nước sôi 100 độ, vẫn có thể vui vẻ với cuộc đời, nhưng xin cũng đừng nguội lạnh như không có thứ được gọi là luật đặc khu đang lấp ló phía chân trời.
Tôi xin khẳng định là sự xuất hiện của người Trung Quốc trong những đặc khu sẽ ồ ạt và lúc ấy chúng ta có quan tâm đến đâu thì cũng là việc đã rồi, sẽ rất khó thay đổi được gì.
Câu hỏi được đặt ra là chẳng lẽ dân tộc này lại xứng đáng làm nô lệ?
Châu Đoàn

Một xã hội bị âm binh hóa

“…Sống và biết là sẽ chết nay mai, nhưng hãy suy nghĩ vì vĩnh hằng của chân lý, vì trường cửu của đạo lý! Vì tà quyền và tham nhũng luôn phản lại chân lý và đạo lý…”
doi_ambinh01
Một xã hội bị âm binh hóa (Phần 1)
06/07/2018
Nếu không gọi đúng tên tà quyền là âm binh
đang lũng đoạn xã hội Việt,
đang sa đọa nhân tính Việt,
thì ta sẽ có lỗi với nhân phẩm Việt.
Âm binh, ngữ văn có trong văn hóa nhân gian như một lực lượng trong bóng tối, gần âm phủ hơn gần nhân sinh, được điều khiển bởi tà quyền trong ma đạo, chúng hoành hành trong cõi âm, không có luân lý cũng chẳng có đạo lý.
Làm người có nhân nghĩa, nhân tín, nhân đạo, nhân từ thì ai cũng muốn xa âm binh, vì chúng đại diện cho cái ngu đi cùng với cái ác, cái vô tri song hành với vô minh, ở đó chân, thiện, mỹ không có chỗ đứng, ghế ngồi trong thế giới của âm binh.Âm binh hóa, ngữ pháp chế tác ra động từ, nêu rõ quá trình một xã hội bị tà quyền tha hóa, đưa xã hội vào ma đạo, ngược chiều với đạo đức có nhân tri, trái chiều với quốc đạo có nhân trí, nó là đường đi nẻo về của của độc quyền dùng độc trị để hủy nhân tính, dùng độc tài để diệt nhân giáo, dùng độc đảng để sa đọa nhân nghĩa.
Làm người có nhân phẩm, thì tránh tuyệt đối bị âm binh hóa, nếu bị rồi thì không những mất đi đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, mà còn bị rơi vào cái xấu, tồi, tục, dở, sẽ bị cái thâm, độc, ác, hiểm “nắm đầu, xỏ mũi” dắt vào tà đạo, mà theo lời của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là đã bị: “ma đưa lối, quỷ dẫn đường”! Xã hội học thực tế chính là xã hội học thực tại, vậy chỗ nào ta có thể thấy ẩn hiện âm binh trong xã hội Việt hiện nay?
Đây là vài chỉ báo trong hằng trăm, hằng ngàn chỉ báo để ta nhận diện âm binh mà nghiên cứu, điều tra, điền dã cho tới nơi tới chốn, hãy nhìn khổ nạn của các nạn nhân để nhận ra tội ác của âm binh:
- Nơi nào có dân oan, bị đàn áp bởi công an, côn đồ… chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có con dân Việt yêu nước biểu tình đòi bảo vệ toàn vẹn thổ Việt mà bị đàn áp, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt biểu tình đòi bảo vệ môi trường, thực phẩm sạch mà bị đàn áp, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt đòi nhân quyền, dân chủ mà bị áp chế, khủng bố, bắt bớ, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt bị tra tấn, bị đánh đập đến tử vongtrong các đồn công an, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt là nạn nhân của học giả-thi giả-bằng giả, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt là nạn nhân của sư giả-đạo giả-chùa giả, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt là nạn nhân của tham nhũng-tham ô-tham quan, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt là nạn nhân của bạo quyền-bạo lực-bạo hành qua cơ chế, của định chế, chỗ đó có âm binh.
- Nơi nào có công dân Việt bị áp chế bởi bất tín và bất tài của chính quyền, của lãnh đạo, chỗ đó có âm binh.
Phân loại hóa âm binh
Âm binh sống bám tà quyền trong bóng tối. Âm binh được điều khiển bởi âm tướng, được trợ lực bởi âm tá, chúng có mặt trong chính quyền, biến chất chính quyền của chung thành bạo quyền của chúng. Âm binh làm tay sai cho âm tướngâm támang bộ mặt của chính phủ, cơ chế, định chế… để tham nhũng, tham ô, tham lợi.
Một xã hội bị âm binh hóa khi được xã hội học nghiên cứu, điều tra, điền dã, thì xã hội học không những phải được hỗ trợ bởi luật học, kinh tế học mà còn phải được bổ sung bằng tội phạm học, một chuyên ngành có đóng góp sắc nhọn trong phương pháp phân tích và giải thích các cơ cấu, đường dây, mạng lưới của tham nhũng luôn được điều khiển bởi mạng nhện của tà quyền.
Đây là công việc đầu tiên để tạo tiền đề cho nghiên cứu, phân loại hóa còn là cầu nối giữa lý thuyết luận trong xây dựng tri thức khoa học và phương pháp luận trong quá trình sử dụng các kỹ thuật điều tra và điền dã:
Âm binh cờ gian bạc lận, hàng loạt các tướng công an tổ chức đánh bạc lận qua mạng truyền thông, tạo không gian bất hợp pháp trong quá trình xoay tiền, chuyển tiền, rửa tiền bất chính của chúng. Loại âm binh này khai thác ít nhất ba góc khuất của xã hội:
– Chúng đại diện cho an ninh để bảo vệ xã hội, và chúng dùng danh nghĩa này để tổ chức cờ gian bạc lận ngay trong sào huyệt của chúng là các nơi đại diện cho quyền lực của một chế độ (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng…) mà quần chúng và xã hội không sao tưởng tượng được.
– Chỗ giấu diếm chuyện bất chính ở cấp cao thường là nơi được quyền lực che chở, kẻ tổ chức âm quyền này tự cho phép mình đứng cao hơn cả chính phủ và pháp luật để làm chuyện phạm pháp.
– Chủ mưu để tổ chức đường dây và mạng lưới đánh bạc siêu quốc gia với kỹ thuật cao của truyền thông chính là các lãnh đạo cấp cao nhất trong chính quyền, mà Bộ Công an là nơi chứa nhiều âm tướng, âm tá, âm binh.
Âm binh thuốc gian, thuốc giảmà Bộ trưởng Bộ Y tế hiện nay Nguyễn Thị Kim Tiến vừa chủ mưu, vừa tổ chức cho mạng lưới hậu duệ tín cẩn của mình có được các hợp đồng béo bở nhất, với nhẫn tâm bán thuốc ung thư giả cho các bịnh nhân. Chính bà bộ trưởng này được bao che, được bảo kê, được “chống lưng” ở cấp cao nhất (âm binh vương?) qua một hệ thống buôn lậu thuốc quốc tế, thì khi điền dã về loại âm binh này ta có thể chú ý ít nhất ba đường dây sau đây:
– Độc quyền và lạm quyền của một bộ trưởng luôn được bao che bởi bè phái của nó ở cấp cao nhất, cho phép nó có độc quyền trong quá trình chọn đối tác từ nhập khẩu thuốc cho tới các khâu phân phối thuốc trong các bịnh viện.
– Chính quyền hạn của một bộ trưởng tác động trực tiếp tới quá trình quyết định liều lượng thuốc cho tới quyết định giá thuốc trên thị trường, trong đó độc quyền phân phối tạo tiền đề cho độc quyền sản xuất trong gian lận.
– Các tổ chức độc lập trong y khoa và y tế vẫn bị phủ nhận bởi chế độ độc đảng của Việt Nam hiện nay; trong khi đó các hội đồng đạo lý y khoađạo đức y tế tại các quốc gia có dân chủ hiện nay trên thế giới có chỗ đứng độc lập, ngoài chính quyền và không bị chính phủ chi phối. Các hội đồng này có ảnh hưởng lớn tới các giới chuyên môn trong y tế, có ảnh hưởng cao trong chính sách an sinh và an toàn y tế của chính phủ, có ảnh hưởng sâu trong xã hội dân sự, có ảnh hưởng mạnh tới các cơ quan truyền thông.
Âm binh buôn đất bán biểntrong thảm họa Formosa gây khốn đốn cho nhiều triệu ngư dân miền Trung, một thảm họa môi trường và một truy diệt môi sinh chưa từng có trên đất nước ta, mà hậu quả mai hậu không sao lường hết được, thì loại âm binh lãnh đạo này cho phép bọn âm binh Tàu luyện thép bằng độc chất được quyền sử dụng đất và khai thác công nghiệp trong 90 năm; khi nghiên cứu sâu và kỹ về loại âm binh buôn đất, bán biển này chúng ta phải thấy ít nhất ba âm phủ địa của chúng:
– Chúng cam tâm nhận bồi thường chỉ 500 triệu đô la của bọn âm binh Formosa cho một thảm họa không thể dung thứ được, tạo ra bao cảnh chia lìa trong các gia đình ngư dân, mà giờ đây họ phải bỏ quê hương mình để đi làm lao nô cho các nước láng giềng, vì không sao sống được trong một vùng biển chết.
– Chúng vẫn bao che cho Võ Kim Cự là lãnh đạo địa phương đã ký cho Formosa trong 90 năm với nhiều đặc lợi, hắn và đàn anh trung ương của hắn có trách nhiệm trực tiếp về các hậu quả, các hệ lụy của quá trình ô nhiễm hủy diệt môi trường tại đây.
– Chuyện chống tham nhũng hiện nay của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ có nội chất là thanh trừng lẫn nhau giữa các lực lượng âm binh đang dùng tà quyền của chúng để có độc quyền trong chính quyền. Nó không hề có luân lý của công bằng, đạo lý của công pháp để được đặt tên là một chiến dịch chống tham nhũng.
Âm binh buôn đất bán nhàcó mặt không những trong chính quyền độc đảng, trong chính phủ qua Bộ Tài nguyên Môi trường mà qua các công trình quy hoạch địa phương, vùng miền, thành phố, tại đây âm binh khai thác một âm luật (đất không phải của dân mà dân chỉ có quyền sử dụng đất do đảng lãnh đạo, chính phủ quản lý, từ quy hoạch đất tới cưỡng chế). Chính chúng là thủ phạm làm ra cảnh màn trời chiếu đất của bao triệu dân oan hiện nay, chúng là âm binh đúng nghĩa nhất khi chúng dùng tà quyền lẫn bạo lực để cướp đất của dân. Chúng không chừa thủ đoạn nào, kể cả phối hợp đàn áp công an cùng với khủng bố dân lành của các băng đảng, côn đồ, du đảng… Khi nghiên cứu, điều tra, điền dã về loại âm binh này chúng ta phải thấy ít nhất ba liên minh trong âm thổ của chúng:
– Bọn đầu cơ trung ương có mặt trong chính phủ có luôn mạng lưới đàn em tại địa phương, chính bọn này là tham quan địa chủ, chia chát thẳng với đàn anh trung ương để trộm, cắp, cướp, giựt đất của dân, chúng bao che cho nhau qua bạo quyền của độc đảng, mà trong đảng thì các nhóm lợi ích chỉ là các mafia, với cách tổ chức lén lút kiểu âm binh vô dạng.
– Bọn anh em âm binh với nhau trong đảng và trong chính quyền thông đồng với các công ty trách nhiệm xây cất, đây là bọn chủ thầu, một loại âm binh chỉ có một động cơ là tiền và không hề có một luân lý cộng đồng, một đạo lý dân tộc. Chúng chính là âm binh trọc phú, có tiền mà không có lương tri, đừng mong chờ chúng có lương tâm với đất nước, vì đất bị chúng mua với giá rẻ mạt, thì phải làm ra thật nhiều tiền cho chúng.
– Cả ba bọn âm binh này: trung ương, địa phương, chủ thầu bao che cho nhau tạo ra một loại âm binh thổ, biến đất thành tiền; nếu là lãnh đạo trung ương chúng có con tính của Hoàng Tôn Hiến sẵn sàng ám hại người để trục lợi, nếu là lãnh đạo địa phương chúng có con tính của Mã Giám Sinh, loại nhân chọn tà, kiểu ghế trên ngồi trốc sỗ sàng; và nếu là chủ thầu chúng có con tính của Tú Bà, vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Âm binh rút ruột nạo đườngchúng có mặt trong các bộ xây dựng, giao thông, vận tải, chúng có luôn liên minh của chúng thông đồng với nhau để ăn chia với chúng qua các công trình xây dựng cầu đường, các cơ sở hạ tầng… Chưa hết, chúng còn cấu kết với nhau qua các trạm thu phí, mà chúng không ngượng khi đổi tên là trạm thu giá (ngữ pháp của loại âm binh mãi lộ) gây bao khốn đốn trên mọi trục giao thông trong cả nước.
Chúng chính là loại âm binh độn thổ để vơ vét, chúng trộm, cắp, cướp, giật ngay từ thượng nguồn bằng mọi cách mà âm ngữ của chúng dùng là rút ruột, nạo ruột, vắt ruột, tức là ăn cắp, biển thủ, gian lận ngay trên vật liệu xây dựng. Chúng có trách nhiệm trong các nguyên nhân của bao tai nạn giao thông, hơn chục ngàn đồng bào tử vong hằng năm, chỉ trong cuối tuần lễ tháng 2, năm 2018 đã có 5 tai nạn đường sắt nghiêm trọng. Khi nghiên cứu, điều tra, điền dã về loại âm binh này, hãy đi từ hệ thống dọc của lãnh đạo tới quan hệ hàng ngang giữa chính quyền và các công ty xây dựng, để thấy tham nhũng đã bòn rút xương tủy của đất nước, dân tộc như thế nào:
– Chất lượng từ vật liệu xây cất tới kỹ thuật xây cất không hề lấy tiêu chuẩn quốc tế, tức là tôn trọng an toàn tính mạng của người dân trong giao thông, mà luôn bị rút ruột, nạo ruột, vắt ruột nhiều lần và qua nhiều giai đoạn. Trong thống kê về tử xuất giao thông của Việt Nam hiện nay là cao nhất của thế giới, một phần có lỗi và tội của chúng.
– Vô trách nhiệm trong quá trình bảo đảm hoàn thành dự án, loại âm binh mãi lộ này còn tìm mọi cách để “đội giá”, làm tăng lên hàng chục, hằng trăm lần dự kiến ban đầu, loại âm binh này ăn tiền thuế của dân, chỉ nuốt mà không hề nhai, chúng vừa bòn rút vừa hoang phí, biển lận từ vật liệu tới tài sản công của đất nước.
– Ăn và nuốt ngay mà không nhai, nên đừng trông chờ chúng hiểu về nguồn gốc tiền thuế chính là mồ hôi nước mắt của dân, chúng là loại âm binh mang bản chất của ma đói trong xây dựng, ma bùn trong nguyên liệu, ma xó trong các trạm thu phí (thu giá).
Âm binh đầu nậu sự cốchúng có mặt trong mọi phương án từ giải trí tới nghệ thuật, từ điện ảnh tới sân khấu, từ lễ hội tới văn nghệ quần chúng, từ festival này tới festival kia. Chúng nằm ngay trong chính phủ trung ương và chính quyền địa phương, và mỗi khi có ngân sách cho các sự cố: giải trí, nghệ thuật, điện ảnh, sân khấu, lễ hội, văn nghệ quần chúng… là chúng “ăn chặn” ngay thượng nguồn từ o ép giá tới biển lận các chi phí, từ đó các đạo diễn, diễn viên, ca sĩ, kịch sĩ, kỹ thuật viên… chỉ còn nhận được khoảng 50%, tức là chúng đã lấy và bỏ vào túi của chúng 50% rồi. Còn nếu ai mà không nhận điều kiện tham nhũng qua kiểu âm binh đầu nậu này, thì chúng sẵn sàng tìm người khác, ban khác, nhóm khác chấp nhận điều kiện của chúng. Khi nghiên cứu, điều tra, điền dã về loại âm binh đầu nậu này, ta nên nhận diện ít nhất ba hành vi gian lận của chúng:
– Chúng có sẵn các mạng lưới các nhân vật, các nhóm, các đoàn trong danh sách của chúng, sẵn sàng cam chịu các điều kiện tham ô, hối lộ, mãi lộ của chúng.
– Chúng có mạng lưới các bộ trưởng, các lãnh đạo đảng ủy, các trách nhiệm của các ủy ban nhân dân sẵn sàng “nhắm mắt, làm ngơ” để chia chát với chúng qua thói đầu nậu chặn tiền ngân sách của chúng.
– Chúng có mạng lưới như mạng nhện ngay trong các nghệ sĩ, các nhà đạo diễn, các nhà sáng tạo sự cố… bị chúng buộc phải làm theo yêu cầu của chúng, dù rất cẩu thả trong nghệ thuật, dù rất buông thả trong kỹ thuật.
Âm binh buôn bằng bán cấp, đang thiêu hủy từng ngày, từng năm nền giáo dục với học giả-thi giả-bằng giả, ngay giáo chức cho tới các cấp lãnh đạo của bộ máy độc đảng hiện nay. Giả vì có học vị và học hàm mà không có học lực, chạy chọt qua hối lộ và tham nhũng để có chức phó giáo sư, giáo sư đại học mà chưa hề có công trình nghiên cứu cá nhân, chưa hề công tác trong một viện nghiên cứu, thậm chí chưa hề có quá trình giảng dạy.
Bọn âm binh này xem bằng cấp là tờ giấy như có tiền mua vé vào cửa để tiếp tục chuyển việc gian lận buôn bằng bán cấpqua chuyện xảo trá mua chức bán quyền sau đó, chính chúng cũng công nhận chúng là tiến sĩ giấy, giáo sư giả… Khi điều tra về loại âm binh này đang đầu độc không những cả hệ thống giáo dục hiện nay mà chúng đang gây nhiễm trùng cả một không gian lý trí làm nền của nhân tính, của một thời đại, trong đó hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) bị tha hóa rồi biến chất, mà các thế hệ mai sau phải trả những giá vô cùng đắt!
Khi nghiên cứu, điều tra, điền dã về chúng thì ta đừng rời hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) trên các tiêu chuẩn của khoa học, nơi mà dữ kiện là chứng từ, nơi mà phân tích chính là cấu trúc của giải thích, ta có ít nhất ba tiêu chuẩn để lột mặt nạ bọn âm binh vô tri thức này:
– Dùng hệ chuyên qua đào tạo: chuyên gia phải có chuyên môn, có gốc của một chuyên ngành, có rễ của chuyên khoa là nơi đào tạo ra chuyên gia, nơi mà chuyên gia nhận học vị rồi học hàm để xác chứng học lực của chuyên gia đó.
– Dùng hệ chuyên qua truyền thông: một chuyên gia phải có công trình khoa học cá nhân qua hệ thống truyền thông trong đó chất lượng bài khoa học, tác phẩm, báo cáo… được thẩm định bằng các tiêu chuẩn chuyên môn trong chuyên ngành của chuyên gia đó.
– Dùng hệ chuyên qua trao đổi: một chuyên gia phải có trao đổi, đối thoại, phản biện qua hệ hội (hội thảo, hội luận, hội nghị), qua đó chuyên môn chuyên ngành, chuyên khoa của một chuyên gia được tập thể, cộng đồng khoa học dùng hệ kiểm (kiểm tra, kiểm soát, kiểm định) để làm rõ về giá trị của công trình nghiên cứu, về chất lượng khoa học của chuyên gia đó.
(Còn tiếp)
*****
Một xã hội bị âm binh hóa (Phần 2)
Giải luận hệ lụy qua tổng kết định chất
Khi hoàn thành xong phân loại hóa các âm binh trong không gian của hệ  (tà quyền, tà đạo, tà lực) và qua thời gian tính của một chế độ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng), chúng ta có bản tổng kết định chất ngay trên bản chất của các loại âm binh này:
Âm binh tham quan, sống nhờ bạo quyền trong lén lút.
Âm binh tham nhũng, sống nhờ độc quyền trong lòn lách.
Âm binh tham ô sống nhờ lạm quyền qua bòn rút.
Âm binh độc quyền, sống nhờ độc trị để tham nhũng.
Âm binh độc tài, sống nhờ độc tài để bạo hành.
Âm binh độc trị, sống nhờ độc quyền để cai trị.
Âm binh độc tôn, sống nhờ độc quyền để trộm cướp.
Âm binh độc đảng, sống nhờ độc tài để giữ tư lợi.
Sau khi thực hiện xong hai giai đoạn: phân loại hóa và tổng kết định chất, chúng ta sẽ có giải luận hệ lụy, là hạ lưu của phân tích và giải thích:
– Hệ  (tà quyền, tà đạo, tà lực) luôn sinh đôi và song hành với hệ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng), tại đây quyền lực là quyền lợi và quyền lợi chính là tư lợi của lực lượng thống trị.
– Hệ  (tà quyền, tà đạo, tà lực) khi ăn nằm, chia chát với hệ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng) sẽ sinh ra hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành) trong xã hội, trong quần chúng, mà nạn nhân luôn luôn là quần chúng không nhân quyền.
– Hệ  (tà quyền, tà đạo, tà lực) cùng hệ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng) khi liên minh với hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành) thì không những tự do, công bằng, bác áilàm nên nền cộng hòa của mỗi quốc gia sẽ bị chà đạp, mà gốc của nhân quyền và cội của dân chủ cũng sẽ bị đàn áp.
– Hệ  (tà quyền, tà đạo, tà lực), hệ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng) và hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành)nhập lại làm một (một chế độ, một định chế, một chính quyền không phân lập) thì nạn nhân tiếp theo là hệ đa (đa trí, đa tài, đài hiệu, đa năng) của đa nguyên sẽ bị tiêu diệt trong mọi sinh hoạt chính trị, hành chính, văn hóa, giáo dục…
Phân tích tổng quát về các hậu quả
Chính giải luận hệ lụy sẽ giúp ta nhận định thực tế để thành lập quá trình phân tích thực tại, đây là phương pháp luận của xã hội học thực nghiệm trong đó mọi kết quả thực địa có dữ kiện song đôi cùng chứng từ sẽ làm nên luận cứ của xã hội học giải thích, đã vượt qua và vượt lên loại tin tức thường nhật. Chính phân tích tổng quát tức là có luận cứ khoa học xã hội về các hậu quả xấu mà một xã hội phải nhận lãnh khi đang bị âm binh hóa bằng các thủ đoạn, các âm mưu thâm, độc, ác, hiểm, sẽ giải thích tại sao một xã hội bị đưa đẩy tới một đời sống xã hội, một sinh hoạt xã hội, một quan hệ xã hội xấu, tồi, tục, dở:
- Tham nhũng không ở cạnh, ở bên, ở kề cuộc sống, mà chúng ở ngay giữa đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội.
- Tham nhũng luôn dùng tà quyền để giết dân chủ đấu tranh cho công bằng.
- Tham nhũng giành không gian gian lận tài chính để giết sản xuất chân chính, diệt kinh tế chân chính.
- Tham nhũng chọn khủng bố để truy hiếp nhân quyền, đàn áp nhân phẩm.
- Tham nhũng dàn dựng tà quyền để giật dây quyền lực của chính quyền.
- Tham nhũng lẩn trong bóng tối của tà quyền, nhưng luôn rình rập công pháp để thao túng pháp luật.
- Tham nhũng không ngần ngại dùng bạo quyền, nên nó không e ngại khi sử dụng du đảng, côn đồ, lưu manh, xã hội đen để khủng bố dân oan, dân chúng.
Đồ hình tri thức để nhận diện âm binh
Giải luận hệ lụy qua nhận định thực tế trong phân tích thực tạidựa trên các kết quả thượng nguồn của nghiên cứu thực tế, điều tra thực tiễn, điền dã thực địa, chúng ta đã đến giai đoạn kiểm định bản chất tà quyền của hiện tượng tham nhũng, đây chính là khoa học luận của xã hội học, tại đây giải thích phối hợp với phân tích để kiến trúc hóa đồ hình tri thức, trong đó kiểm chứng được các chỉ báo để nhận diện các loại âm binh
– Tà quyền và tham nhũng luôn thay trắng đổi đen, tráo trở để gian lận, nên nó sẵn sàng tuyên bố với những luận điệu trái ngược nhau, xoay theo chiều gió âm của chúng, quyền lịnh qua các tuyên bố mâu thuẫn để chạy tội.
– Tà quyền luôn đồng hội đồng thuyền với tham nhũng qua phương trình âm của chúng: giấu-che-vùi-lấp tất cả các hành vi, hành động phạm pháp của chúng.
– Tà quyền ăn nằm với tham nhũng qua các mạng lưới trong bóng tối, trong đó có sự hiện diện của băng đảng, côn đồ, du đảng, xã hội đen…
– Tà quyền chung chạ với tham nhũng để tìm mọi cách khống chế quyền lực chính trị, thao túng được kinh tế, rồi đe dọa và mua chuộc cả tư pháp.
– Tà quyền chia chác với tham nhũng luôn dùng hai con đường chính trị qua: quyền lực và kinh tế, mà qua đó nó chỉ chú trọng tài chính khi vơ vét.
– Tà quyền sinh đôi với tham nhũng và khi chúng bị truy tố ra pháp luật thì lời khai của chúng luôn dính tới quyền lực trong chính quyền hoặc trong chính phủ, nơi mà quyền lợi chính là tư lợi của kẻ nắm quyền lực.
– Dùng đồ hình tri thức để nhận diện âm binh qua tà quyền và tham nhũng, chúng ta sẽ hiểu cơ cấu, quy trình, tức là sự vận hành của bọn âm binh này, khi hiểu biết về sự vận hành này và sự hành tác cụ thể trong guồng máy của chúng, cụ thể là khi có hối lộ, thì ta có 3 nhân tố: kẻ tham nhũng nhận hối lộkẻ trao hối lộ và thỏa thuận hối lộ vừa là cầu nối, vừa là hợp đồng lậu của cơ cấu tham nhũng:
– Tà quyền và tham nhũng luôn dùng lập luận “có qua có lại”, rồi phát biểu thêm “hai bên cùng có lợi”, nhưng trong bóng tối chúng sẵn sàng “ném đá dấu tay” và “ngậm máu phun người”đối với các nạn nhân của chúng, thí dụ cụ thể là dân oan, mà ta thấy đã lên nhiều triệu trong xã hội Việt hiện nay, vừa bị chúng cướp đất, vừa bị công an và côn đồ đánh đập, lại còn bị bỏ tù vì tội “phá rối an ninh” do chính chúng đặt ra.
– Tà quyền và tham nhũng luôn tự tin trong ảo tưởng là chúng đứng ngoài, và đứng trên luật pháp, vì chúng biết: lách luật, né luật, xé luật… nhưng khi chúng chuyển tiền ra ngoại quốc, trong các nước dân chủ, thì chúng sẽ bị vạch mặt chỉ tên, chúng là nạn nhân của chính chúng, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
– Tà quyền và tham nhũng còn đi tự bắt cóc (vụ Trịnh Xuân Thanh) tới ám sát (các tướng, tá công an và quân đội bị thủ tiêu), chúng có tà thuật từ khủng bố tới chụp mũ các kẻ chân chính đấu tranh cho công bằng, dân chủ và nhân quyền.
– Tà quyền và tham nhũng còn liên minh được các lực lượng có sinh hoạt đối kháng nhau trên hành chính và cơ chế: công an lo cho trật tự xã hội thì đi đêm với du đảng, côn đồ, lưu manh, xã hội đen; quân đội phải lo cho an ninh quốc phòng thì lén lút với bọn đầu cơ bất động sản…
– Tà quyền và tham nhũng luôn tự tin vào đường dây và mạng lưới mà chúng gọi tên là “sân sau” có “cửa sau” để “chống lưng” và “đỡ lưng”, đây là âm ngữ của âm binh, khi khoe khoang về “hậu đài” của chúng, giờ đã là thuật ngữ được chấp nhận và tràn lan, đang ô uế xã hội Việt, và được xem là một cái vốn xã hội bất chính nhưng đầy quyền lực đen của âm binh.
– Tà quyền và tham nhũng giữa chúng với nhau thì có “giá rẻ” và không có kiểm tra, đây là thượng nguồn của bọn lãnh đạo âm tướng với bọn thầu đất âm tài, ngược lại giá mà nạn nhân của chúng phải trả sẽ thật cao: dân oan mất đất và kẻ mua nhà mới với giá thật đắt đỏ.
Hành tác cụ thể của guồng máy âm binh
Giải luận được hành tác cụ thể của guồng máy âm binh được chế tác ra bởi tà quyền và tham nhũng, thì phải phân tích và giải thích về: tổng kết hậu quả, tại đây xã hội học phải đào thật sâu, bới thật kỹ, theo lời thầy của chúng ta là thi hào Nguyễn Du: “phải lần cho tới tận nguồn lạch sông”, phải vượt qua âm ngữ của chúng là“bôi trơn” để nhận ra quá trình tham ô qua hối lộ là mua chuộc bất chính để giật dây nạn nhân, rồi thao túng họ trong một quá trính từ bất hợp pháp tới phạm pháp:
– Tà quyền và tham nhũng không những chống luật pháp, mà còn hũy diệt tài nguyên của đất nước, chống tài lực của đồng bào; không những bòn rút tới kiệt quệ sinh lực của quốc gia mà còn thiêu hủy luôn khả năng và tiềm năng phát triển của quốc gia đó. Đây là một tội ác vô hình, vì khó thấy, nhưng là một tội ác trầm trọng phải xử theo tội hình sự cấp quốc gia.
– Tà quyền và tham nhũng tổ chức theo mạng lưới để cấu kết lén lút với nhau, nhưng mạng lưới này là mạng nhện được đặt giữa xã hội như một cái bẫy nhện để bẫy các con mồi chính là nạn nhân của hối lộ, tham ô, trong đó có dân đen, dân oan không được chính quyền bảo vệ, và không có dân chủ để bảo an, không có nhân quyền để bảo chứng.
– Tà quyền và tham nhũng luôn đứng ngoài nhưng đứng cạnh cái bẫy kiểu mạng nhện này, chúng là loại âm binh đói mồi vì lòng tham không đáy của chúng. Giữa chúng với nhau chúng luôn dùng 2 loại âm luật giang hồ: luật im miệng đi đôi với luật yên lặng, còn đối với nạn nhân của chúng thì chúng có 2 loại vũ khí: điêu ngoa khi giới thiệu tà quyền của chúng và bí mật khi giăng bẫy tham nhũng của chúng.
– Tà quyền và tham nhũng đi đêm để thao túng xã hội, giật dây quần chúng, suy kiệt tài nguyên đất nước, xói mòn nguyên khí của dân tộc, thì chúng bất chấp đạo lý yêu nước, luân lý tổ tiên, trong bối cảnh hiện nay là đảng nát như tương, nước nát như cám.
– Tà quyền và tham nhũng khi chung chạ với nhau thì luôn dìm, luôn trấn để làm ngộp, làm nín quá trình song hành phạm pháp và tội phạm của chúng. Khi bắt được một thủ phạm, thì đồng phạm luôn tìm cách thủ tiêu thủ phạm này để thủ tiêu nhân chứng trước luật pháp, cho nên tà quyền và tham nhũng sẵn sàng ám sát và ám hại đồng bọn của chúng. Đầu môi chót lưỡi “đồng chí” chỉ để làm trò hề cho chúng.
– Tà quyền và tham nhũng dùng hệ ám (ám sát, ám hại) qua các thủ đoạn đầy ám chướng, đây là một trong các bản chất chính gốc của âm binh, khi bị ánh sáng của công pháp soi tới.
Khi nghiên cứu về xã hội, chính Toqueville phải công nhận: “luật thì cứng mà thực hành luật thì mềm”, tại đây các nhà xã hội học nên chú ý vào cách xếp loại của tội phạm học về 3 loại tham nhũng khác nhau:
Tham nhũng trắng, “khi chấp nhận được thì cho phép”, như tặng quà bánh, hoa… trong quan hệ xã hội, nghề nghiệp, cơ chế…
Tham nhũng xám, dùng tiền để mua quyền, thì luật pháp phải có mặt để xét xử.
Tham nhũng đen, dùng tiền và dùng quyền để gây tác hại, có hậu nạn cho quốc gia, dân tộc, qua các phương án, kế hoạch, công trình trong công vụ thì phải xử theo hình sự, vì là tội phạm, có khả năng gây ra tội ác.
Phân tích liên minh qua liên đới của quyền lực
Chính thời điểm mà xã hội học cùng tội phạm học khám phá được mạng lưới giữa tà quyền và tham nhũng, khi mà âm binh đã biến mạng lưới thành mạng nhện để gài bẫy xã hội, quốc gia, dân tộc, mà nạn nhân luôn là những kẻ “bé cổ, ngắn họng”, tức là dân đen, dân oan, là dân chúng không có nhân quyền, vì không có chế độ dân chủ để bảo vệ họ, thì đây là loại âm binh luôn tha hóa quyền lực để tha hóa pháp luật.
Adam Smith, trong phân tích kinh tế học của mình đã phải công nhận là: tiền điều khiển người, và tiền điều khiển cả thời gian lẫn không gian xã hội, kẻ chi tiền để hối lộ luôn nghĩ là mình khôn lanh khi tiết kiệm được thời gian, và kẻ tham nhũng khi làm tiền rồi thu tiền luôn khai thác triệt để loại ảo tưởng khôn lanh này để trục lợi. Tại đây, bọn âm binh này làm hao tổn năng lượng và công sức cho xã hội, mà thực tế này không hề được xem xét tới trong con tính của bọn tham nhũng. Trong cách nói nhân gian: “có tiền mua tiên cũng được”, thì kẻ chấp nhận loại thực tế này là kẻ không có đạo lý dân tộc, không có luân lý cộng đồng, không có đạo đức xã hội, vì đây là loại ngữ pháp đã bị âm binh hóa rồi! Xã hội học khi phối hợp với chính trị học để nghiên cứu về tà quyền và tham nhũng, thì phải đi thẳng tới phân tích liên minh qua liên đới của quyền lực:
Tham nhũng luôn lộ bộ mặt:
Sành đời và sành ăn chơi.
Sành luật và sành quen biết.
- Sành trò lách luật và trò thoát luật.
Tham nhũng có cặp song hành:
Đạo đức giả đi cùng bạo động.
Phạm pháp đi cùng lạm quyền.
Đe dọa đi cùng khủng bố.
Tham nhũng có mặt trong:
- Guồng máy lãnh đạo.
- Cơ chế của chính quyền.
- Quen biết an ninh (cảnh sát và công an).
Tham nhũng da diện:
Độc quyền quyết định và đa quyền trong quen biết (dùng quan hệ)
Độc trị để cả quyết và lạm quyền trong hành động (dùng hậu duệ)
Độc tôn để điều khiển và phạm pháp để trục lợi (dùng tiền tệ)
Tham nhũng luôn tìm có:
- Nhiều chức năng để tăng khách hàng đến tìm tham nhũng, chúng vừa là bộ trưởng, vừa là dân biểu; vừa là đảng ủy, vừa là ủy ban nhân dân…
- Nhiều chức năng để có nhiều quyền, quen được nhiều bao thầu, để gặp được nhiều đối tượng và đối tác trong quan hệ tham nhũng.
- Nhiều chức năng để qua được các cửa của nhiều cơ chế, để gặp nhiều khách hàng, để có được nhiều nguồn hối lộ.
Tham nhũng luôn tạo 3 đồng hành trong bóng tối:
- Đồng hội đi đêm để đồng chí phạm pháp
- Đồng hội chia lợi để đồng chí giấu lời
- Đồng hội che chở nhau để đồng chí giấu tội nhau.
Phân tích các tri thức chống tham nhũng
Chống tham nhũng phải có luật pháp đúng trong nghiêm minh, để nghiêm túc lúc thi hành luật, chưa đủ! Xã hội phải có ngữ vựng đúng, ngữ văn đúng để có ngữ pháp đúng; luật pháp đúng luôn song hành cùng ngôn ngữ đúng: gọi đúng tên để chỉ đúng tội! Camus dặn chúng ta: nói sai hay nói không đúng, chỉ làm khổ thêm nhân thế! Nhưng dùng tri thức gì để biến thành hành động sáng suốt và tỉnh táo để chống tà quyền và tham nhũng? Rousseau chỉ cho ta một đạo của nhânphải có được các chủ thể yêu đồng bào, yêu đồng loại và biến tình yêu này thành tình yêu chân thành để bảo vệ công pháp đại diện cho công bằng.
Đây là đường đi nẻo về của công lý làm ra pháp luật, một tình yêu của các công dân vô vụ lợi dùng luật pháp để chống chống tà quyền và tham nhũng, nếu cần thì làm mới luật theo hướng công bằng-công lý-công pháp. Như vậy xã hội học phải hiểu để thấu bản lĩnh và nội công của hệ công (công bằng-công lý-công pháp) mang sung lực để tạo ra chủ thể công dân vô vụ lợi, để nhận diện ra bất bình đẳng tạo ra bất công trong xã hội. Nếu tự “vỗ ngực” là nhà xã hội học mà: nhắm mắt, khoanh tay, cúi đầu, quỳ gối để “làm ngơ” trước bất công vì sợ bạo lực của tà quyền và tham nhũng, quay lưng-bỏ mặc dân chúng là nạn nhân của bạo quyền thì chắc chắn không phải là nhà xã hội! “Vỗ ngực” là nhà xã hội học cũng vô ích!
Cụ thể thì quá trình tri thức chống tham nhũng có mặt trong các quốc gia có tự do, dân chủ và nhân quyền, vì họ trực diện hàng ngày để chống tà quyền và tham nhũng qua các kinh nghiệm sau đây:
Các vai trò công dân
- Công dân tích cực dùng luật pháp.
- Công dân chủ thể dùng sáng tạo làm mới luật pháp.
- Công dân công pháp dùng nhân quyền vì dân chủ.
Các mặt trận chống tham nhũng:
- bằng luật pháp, bằng đạo đức, bằng dân chủ,
- bằng quyết tâm chống bạo quyền, chống tà quyền,
- bằng tự do trực diện vừa để hưởng tự do, vừa để tuyên bố tự do của chính mình.
Các diễn đàn chống tham nhũng
- Tạo không gian công chúng nói thẳng để nói đúng, có cảnh giác, có tố cáo.
- Tạo không gian quần chúng nói đúng về hậu quả vật chất, kinh tế, tài chính do tham nhũng gây ra.
- Tạo không gian cộng đồng nói trúng về hậu quả trực tiếp xúc phạm tới đạo đức, đạo lý, luân lý.
Các mạng truyền thông lợi ích tập thể
- Định nghĩa đúng thế nào là lợi ích tập thể để chống tham nhũng.
- Chế tác ra chủ thể công dân trực tiếp để chống tham nhũng.
- Đấu tranh cho độc lập tư pháp để chống tham nhũng.
Qua quá trình này, xã hội dân sự phải cho ra đời càng sớm càng hay: những công dân báo động (lanceurs d’alerme) mỗi lần tham nhũng xuất hiện, ló mặt. Tại Bắc Mỹ, trong đó Canada đã cơ chế hóa và pháp lý hóa để bảo vệ các công dân báo động này. Chỉ khi nào có tư pháp thực sự dân chủ mới chống được tham nhũng của tà quyền, trong đó công pháp có công bằng qua công lý tuyệt đối thì phải xử lãnh đạo tham nhũng như xử thường dân phạm tội.
Sống và biết là sẽ chết nay mai, nhưng hãy suy nghĩ vì vĩnh hằng của chân lý, vì trường cửu của đạo lý! Vì tà quyền và tham nhũng luôn phản lại chân lý và đạo lý.
GS Lê Hữu Khóa (*)
(*) Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm các lập luận qua nghiên cứu của VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa) qua www.facebook.com/vungkhaluan/