Friday, September 2, 2016

Mỹ thúc Trung Quốc đừng ‘khoe cơ bắp’ trên Biển Đông

Đảo nhân tạo Đá Thập do Trung Quốc xây dựng trong quần đảo Trường Sa. (Hình: CSIS)
Đảo nhân tạo Đá Thập do Trung Quốc xây dựng trong quần đảo Trường Sa. (Hình: CSIS)
WASHINGTON (NV) – Trung Quốc phải là một cường quốc có trách nhiệm khi đang gia tăng ảnh hưởng trên thế giới và nên tránh khoe cơ bắp khi tranh chấp chủ quyền Biển Đông với các nước nhỏ hơn.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hệ thống truyền hình CNN sẽ được phát hình vào ngày Chủ Nhật, Tổng Thống Barack Obama cho hay như vậy trước khi ông đến Hàng Châu dự Hội nghị thượng đỉnh của khối G-20. Tại đây, ông sẽ gặp chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và nguyên thủ các cường quốc kinh tế khác của thế giới.
Ông Obama nói trong cuộc phỏng vấn là Hoa Kỳ ủng hộ một nước Trung Quốc trỗi dậy hòa bình mà Bắc Kinh phải thừa nhận rằng “với sự gia tăng sức mạnh, phải đi kèm với sự gia tăng trách nhiệm.” Theo một phần của cuộc phỏng vấn được công bố hôm 2 Tháng Chín.
“Nếu anh ký một hiệp định yêu cầu trọng tài quốc tế cho các vấn đề trên biển, sự kiện là anh lớn hơn Philippines hay Việt Nam hoặc các nước khác… thì đó không là lý do để anh bỏ qua (hiệp định) và phô diễn cơ bắp của anh.” Ông Obama nói. “Anh phải tuân thủ luật pháp quốc tế.”
Là một thành viên ký gia nhập Công Ước Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS), Trung Quốc gần đây bị Tòa Trọng Tài Quốc Tế ở The Hague (Hòa Lan) ra phán quyết bác bỏ tuyên bố đường 9 đoạn “Lưỡi Bò” chiếm gần hết Biển Đông. Nhiều đoạn của cái “Lưỡi Bò” này lấn sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Philippines.
Tập Cận Bình và một số chức sắc ngoại giao cãi chầy cãi cối rằng người Trung Quốc đã “làm chủ” Biển Đông từ thời cổ xưa, một điều không ai chấp nhận sự tuyên bố phi lý như thế. Phán quyết của Tòa Quốc Tế ở The Hague nói Trung Quốc không có chủ quyền mơ hồ từ “cổ xưa.” Hiểu như vậy, Trung Quốc đã xâm phạm vào chủ quyền của Việt Nam và Philippines.
Biết là đuối lý, Trung Quốc tuyên bố không tham dự phiên xử cũng như không tôn trọng phán quyết của Tòa. Đồng thời, Trung Quốc gấp rút xây dựng 7 bãi đá ngầm cướp của Việt Nam, biến chúng thành 7 đảo nhân tạo và xây dựng các phi đạo, cơ sở quân sự khổng lồ, cảng biến, mưu đồ khống chế toàn bộ khu vực Biển Đông.
Trong cuộc phỏng vấn của CNN, Tổng Thống Obama nói rằng Hoa Thịnh Đốn đã thúc giục Bắc Kinh tuân thủ luật pháp quốc tế để xây dựng trật tự quốc tế vững mạnh.
“Khi chúng ta thấy họ vi phạm luật lệ và thông lệ quốc tế, như chúng ta thấy trong một số trường hợp chẳng hạn như Biển Đông hoặc một số hành vi của họ liên quan đến chính sách kinh tế, chúng ta rất cứng rắn.” Ông Obama nới trong cuộc phỏng vấn. “Và chúng ta cho họ biết rằng (nếu họ không tuân thủ) sẽ có các hậu quả.”

Trước cuộc phỏng vấn của Tổng Thống Obama với CNN, ngoại trưởng John Kerry khi đến Ấn Độ ngày 31 Tháng Tám, cũng khuyến cáo Trung Quốc nên tuân thủ phán quyết của Tòa Án Quốc Tế. Theo ông, quân sự không phải là giải pháp của vấn đề. (TN)

Biết tin ai bây giờ?

Theo Người Việt-02-09-2016
Ngô Nhân Dụng
Trong cuộc họp báo ngày 31 Tháng Tám, 2016 tại Hà Nội, khi nhà báo hỏi về vụ án mạng tại Yên Bái, ông bộ trưởng văn phòng chính phủ cho biết có một phó thủ tướng đã gửi “công văn chỉ đạo cơ quan công an khởi tố, điều tra, xác định nguyên nhân vụ án cấp dưới dùng súng sát hại cấp trên.”
Qua câu nói của ông Mai Tiến Dũng, người ta thấy ông Trương Hòa Bình, phó thủ tướng, đã xác định trong vụ Yên Bái “cấp dưới,” tức ông Ðỗ Cường Minh, đã “dùng súng sát hại cấp trên,” tức hai ông bí thư và chủ tịch tỉnh. Xác định đích danh thủ phạm trước khi cảnh sát tư pháp công bố kết quả điều tra, trước khi có một tòa án xét các chứng cớ và nghe tranh luận rồi tuyên phán; đó là cung cách làm ăn của guồng máy tư pháp Cộng Sản.
Một xã hội tự do dân chủ sống theo lối khác. Người ta chỉ được dùng hai chữ “nghi can” để gọi những người bị nghi ngờ là hung thủ, dù 99% tin chính hắn giết người. Không ai được phép gọi nghi can là thủ phạm, khi tòa chưa tuyên án.
Công an chỉ nhận được lệnh “điều tra,” và “xác định nguyên nhân vụ án.” Họ không có phận sự tìm thêm kẻ tình nghi nào nữa. Gia đình, vợ con Ðỗ Cường Minh cũng không được phép hoài nghi, nghĩ chồng, cha mình là vô tội. Nhưng nếu Ðỗ Cường Minh là hung thủ, thì ông ta cũng chết rồi. Ngay buổi sáng ngày 18 Tháng Tám, ông Ðặng Trần Chiêu, giám đốc công an Yên Bái đã nói rằng vì nghi can Ðỗ Cường Minh đã qua đời cho nên không còn ai để truy tố nữa. Vậy khi ông phó thủ tướng ra lệnh cơ quan công an “khởi tố” thì khởi tố ai? Chắc họ sẽ phải đưa ra trước tòa một cái ghế trống, hay một hình nộm, gọi đó là hung thủ! Vợ con Ðỗ Cường Minh có quyền ra trước tòa hay mời luật sư ra tòa đưa các chứng cớ phản bác hay không?
Một câu của ông Mai Tiến Dũng, thuật lại ý của ông Trương Hòa Bình không giải tỏa được thắc mắc nào mà lại khiến dư luận càng thêm bối rối! Bài trước trong mục này đã nêu lên nhiều câu hỏi về vụ án, nhưng dư luận bên ngoài còn đưa thêm hàng trăm câu hỏi khác. Nhiều tin đồn đãi mới được tung ra mỗi ngày, ngày càng moi móc trong thâm cung bí sử của chế độ độc tài. Bài trước đã hỏi: “Người dân biết tin ai bây giờ?”
Biết tin ai bây giờ?
Câu hỏi này mô tả một cuộc khủng hoảng lớn, lớn hơn vụ án mạng Yên Bái, lớn hơn vụ Formosa, lớn hơn cả chế độ cai trị của cộng sản. Cuộc khủng hoảng lớn của dân tộc bây giờ là khủng hoảng lòng tin. Không ai tin nhà nước, không ai tin cảnh sát công an, không tin báo chí, không tin cả lòng dạ người khác.
Con người sống hạnh phúc vì có thể tin tưởng. Tin được người khác, trong lòng sung sướng lắm. Lòng nghi ngờ sẽ gây đau khổ, sẽ khiến chính mình xấu hơn, ác hơn, có thể sinh bệnh tâm thần. Trong cuộc sống riêng tư, con có thể tin cha mẹ, anh chị em hay vợ chồng tin nhau. Nhìn rộng ra, chúng ta cảm thấy an toàn, bớt lo sợ, hạnh phúc hơn, nếu có thể tin mọi người trong xã hội. Tin rằng đa số người ta ai cũng tôn trọng đạo lý và pháp luật, mình cảm thấy sống an toàn. Giống như người lái xe trên đường mà trong lòng tin rằng những người khác chung quanh mình đều tôn trọng luật đi đường; trong một ngàn người họa hiếm mới có một người đang say rượu hay đang muốn tự sát.
Một xã hội có lòng tin là xã hội ổn định. Người du lịch đến nước Nhật cảm thấy an toàn, vì không lo bị trộm cắp, sống sung sướng trong khi ngoạn cảnh. Ðến nước Ðức, nước Mỹ thấy mình được hưởng an toàn pháp lý, biết rằng nếu mình theo đúng luật thì không lo bị bắt bớ, giam cầm vô lý. Ði qua cửa khẩu các nước đó cũng yên tâm vì không thắc mắc mình có phải hối lộ ai hay không. Người dân các nước đó sống an toàn nhờ họ có thể tin tưởng xã hội họ sống trong nền đạo đức và hệ thống pháp luật đàng hoàng.
Nhờ đâu đa số dân các nước có thể tin vào xã hội chung quanh mình? Vì họ có những định chế thiết lập được lòng tin, bảo vệ niềm tin. Sống chung trong một quốc gia cũng giống như sống với một bản hợp đồng. Có những hợp đồng viết ra chữ rõ ràng, là những hiến pháp, luật lệ. Có những bản hợp đồng ngầm, mọi người đều biết và tôn trọng, là các quy tắc đạo lý, phong tục, tập quán. Có những “hợp đồng ngầm” giúp cho các bản hợp đồng chính thức có hiệu lực hơn. Ðó là lòng tin. Một nước có đủ thứ Hiến Pháp và luật lệ nhưng mọi người còn phải tin rằng các thứ đó được tôn trọng, tin rằng mình chỉ cần sống theo đúng luật thì được an toàn. Nếu không thì đó chỉ là những trang giấy đầy chữ nhưng vô tích sự. Niềm tin chung này cũng là căn bản của những bản hợp đồng ngầm. Ðó là niềm tin giữa con người với con người. Nhờ có niềm tin đó nên phong tục, tập quán, và đạo lý đóng đúng và đầy đủ vai trò bảo vệ xã hội ổn định, người dân sống an toàn, hạnh phúc.
Nhờ đâu dân Mỹ cảm thấy an toàn về pháp lý, dân Nhật cảm thấy yên tâm về mặt đạo lý? Vì trong các xã hội đó người ta có những định chế được xây đắp từ đời này sang đời khác. Người Mỹ thường hay nghiên cứu tâm trạng của dân chúng, đặt những câu phỏng vấn, như “Bạn có tin được các những người làm nghề sau đây hay không? Liệt kê ra: Các thẩm phán? Các bác sĩ? Luật sư? Các chính trị gia? Các tu sĩ? Nhà báo? Nhà giáo? Người bán xe hơi? Người môi giới mua nhà cửa, bảo hiểm, vân vân. Giữa số không và số 10, xin cho biết bạn tín nhiệm các giới người trên đến mức nào? Người ta còn hỏi về mức độ tín nhiệm đối với hệ thống tòa án, với quốc hội, đối với các xí nghiệp kinh doanh, với cơ quan tiên đoán thời tiết, với cảnh sát, với tôn giáo nói chung, vân vân. Tại sao người ta tò mò như vậy? Ðể đo lường lòng tin của người dân vào tất cả xã hội chung quanh.
Người Nhật có một niềm tin sâu xa vào những người chung quanh. Vào các định chế trong xã hội. Một người thợ máy nói, “xe ông hư, cần phải sửa,” tức là xe cần sửa thật. Ai tỏ ý không tin, người ta sẽ kinh ngạc, không hiểu nổi người này mới ở trên mặt trăng xuống hay sao! Bỏ quên một cái túi trên xe lửa, người ta yên tâm, vì biết không ai lấy của người khác. Về nhà gọi điện thoại tìm, chờ một thời gian sẽ được báo tin cái túi lớn nhỏ như thế, nhãn hiệu và mầu sắc đó, đang được cất giữ ở đâu. Thời Phan Bội Châu qua Nhật cụ đã thán phục cái tính tốt đó. Hơn 100 năm họ vẫn sống như vậy.
Sống như vậy thật là hạnh phúc. Tin tưởng người khác là hạnh phúc. Học trò tin thầy cô chỉ muốn cho mình giỏi chứ không nghĩ đến tiền bạc, bệnh nhân tin thầy thuốc có khả năng và tận tụy, dù cũng không biết trị mọi bệnh tật hoàn toàn. Tin rằng hệ thống pháp luật công bằng, minh bạch. Tin rằng các báo, đài đều loan tin có thật và bình luận công bằng. Tin rằng nhà buôn không dối trá bán hàng giả. Tất cả tạo ra một xã hội ổn định, an toàn.
Muốn xây dựng một mạng lưới xã hội như vậy, phải mất hàng trăm năm. Trong lúc lòng người còn đầy rẫy nghi ngờ, phải xây dựng lòng tin bằng cách nào? Phải bắt đầu bằng luật pháp. Trong lúc người ta còn chưa tin được mọi người đều sống lương hảo, đạo đức, ít nhất hãy giúp mọi người tin rằng xã hội có pháp luật, pháp luật được tôn trọng. Nói ít nhất. Vì đó là chuyện tầm thường nhất trong một xã hội văn minh. Không có, thì chưa văn minh. Bắt đầu với pháp luật, vì việc đó tương đối dễ. Dễ hơn việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp. Dễ hơn việc làm sao học sinh, sinh viên tin tưởng vào trường học, vào thầy cô. Khi bắt đầu tin xã hội có pháp luật công bằng rồi, những niềm tin khác xây dựng dễ hơn.
Nhưng muốn tạo niềm tin vào pháp luật, phải bắt đầu bằng việc tôn trọng các quyền công dân căn bản. Người ta chỉ vui vẻ tuân theo luật lệ, không tìm cách xé rào, không lòn qua khe hở, trốn tránh luật lệ, khi nào họ thấy luật pháp là do mình chịu trách nhiệm đặt ra, mình được tự do bầu người lên thay đổi luật lệ cho nên phải tôn trọng luật.
Cuối cùng, muốn xây dựng lòng tin, phải được sống tự do, dân chủ. Các xã hội có vốn niềm tin lớn là những xã hội tự do dân chủ. Ngược lại, trong một nước mà người cầm quyền không tôn trọng cả bản hiến pháp và các luật lệ của họ, lại chỉ lo bưng bít tin tức, chiếm độc quyền thông tin để lừa dối toàn dân, thì đừng kể tội người dân sao không tin bất cứ cái gì.
Trong vụ án mạng ở Yên Bái, dân Việt Nam không biết tin ai. Nói chung, đại đa số người dân không biết tin cái gì nữa. Các chế độ độc tài, từ thực dân đến cộng sản đã gieo rắc đại họa đó, hơn một thế kỷ rồi! Không nên trách người dân thiếu tin tưởng. Không ai muốn sống như vậy cả.
Khi được tin tưởng, dù chỉ tin một số điều, tin một số người thôi, chúng ta hạnh phúc hơn nhiều. Cứ nhìn những đồng bào mới đi biểu tình đòi bảo vệ môi trường sống ở Nghệ An, ở Hà Tĩnh. Ði biểu tình, họ đang sống hạnh phúc. Vì họ biết mình làm gì, và tin công việc mình đang làm là đúng. Còn những anh công an, chính họ đau khổ. Ðánh đập người dân xong, tối nằm ngủ sẽ băn khoăn tự hỏi không biết mình có xứng đáng là một con người hay không!
Trong thiên Ly Lâu thượng, Mạnh Tử mô tả tình trạng suy tàn, với các hiện tượng báo trước chế độ sắp sụp đổ: “Thượng vô đạo quỹ dã, hạ vô pháp thủ dã, triều bất tín đạo, công bất tín độ, quân tử phạm nghĩa, tiểu nhân phạm hình, quốc chi sở tồn giả, hạnh dã: Trên không dựa vào đạo lý, dưới không theo luật pháp nào, trong triều vi phạm lễ nghĩa, các công chức phạm hình luật, một nước như vậy mà tồn tại là điều may hiếm có.” [上無道揆也,下無法守也, 朝不信道,工不信度,君子犯義,小人犯刑,國之所存者幸.]
Chế độ Cộng Sản ở Trung Quốc và Việt Nam đang lâm vào cảnh tượng đó. Bên trên thì “Triều bất tín đạo;” Ủy viên Bộ Chính Trị cũng không ai tin vào chủ nghĩa Mác nữa dù nó vẫn ghi trong cương lĩnh. Cả thế giới biết chủ nghĩa đó là tào lao, mình có ngu đâu mà tin? Họ không còn một thứ đạo lý nào để theo, chỉ còn tham vọng quyền lực giúp họ cấu kết với nhau. Bên dưới thì “Công bất tín độ;” Cán bộ, công chức, đám quan lại tham nhũng không ai theo pháp luật, bất chấp những luật lệ mà chính họ có trách nhiệm thi hành. Tất cả trong tâm trạng làm chuyến tàu vét! Chế độ cộng sản chứa đựng đủ các dấu hiệu đang tan rã.
Thời Mạnh Tử các chính quyền chưa có bộ máy công an kìm kẹp. Cũng chưa có các xảo thuật mị hoặc lừa dối dân tinh vi như bây giờ. Sau khi Mạnh Tử nói những lời trên, trong vòng 80 năm các vương quốc, hầu quốc đều tan rã. Nhà Tần lên, chỉ trong một thế hệ cũng tan. Ngày nay chế độ cộng sản có giỏi đàn áp và mị hoặc nhưng cũng không chắc giỏi hơn nhà Tần. Mà người dân bây giờ có ý thức về quyền công dân của mình cao hơn dân Tầu 2,300 năm trước đây. Cho nên theo phân tích của Mạnh Tử, chúng ta biết rằng chế độ Cộng Sản đang trên đà sụp đổ.

Đi hay ở : Bi kịch của một quốc gia

 Nguyễn Quang Dy

Đi hay ở là một câu hỏi đã ám ảnh nhiều người Việt, ít nhất hai thế hệ, như một bi kịch của quốc gia, với nhiều hệ quả khôn lường. Phải rời bỏ quê hương đất nước “di cư” tới một xứ sở khác là điều bất đắc dĩ. Các cuộc di cư lớn thường do chiến tranh hay thay đổi chế độ chính trị. Nhưng câu chuyện đáng nói ở đây không phải là về chuyện di cư thông thường đã từng xảy ra trong lịch sử (như sau năm 1975), mà về hiện tượng ra đi bất thường đang diễn ra hiện nay tại một số nước chuyên quyền (như Trung Quốc và Việt Nam).

Có một cuốn sách nhỏ mà mỗi khi đọc lại người ta không khỏi liên tưởng đến thực trạng đang diễn ra tại quốc gia, công ty, hay cơ quan của mình. Đó là cuốn “Ra đi, Lên tiếng, và Trung thành” (Exit, Voice, and Loyalty, Albert Hirschman, Harvard University Press, 1970).  Một cuốn sách hay nhưng dường như ít người đọc.

Trong bài này, chúng ta thử nhìn lại làn sóng di cư diễn ra tại Trung Quốc và Việt Nam, như một hệ quả tất yếu của những bất ổn trong nước (như phần nổi của tảng băng chìm). Dòng người và dòng tiền ra đi không chỉ là bi kịch mà còn là thảm họa.

Bi kịch của Việt Nam

Thay đổi là bản chất của tạo hóa và xã hội. Không ai thoát được quy luật “sinh, lão, bệnh, tử”. Nếu không thay đổi thì không thể phát triển, dẫn đến diệt vong. 
Nhưng thay đổi cũng làm người ta lo sợ, nhất là khi đụng chạm đến lợi ích và thói quen. Thái độ ứng xử của nhiều người trước biến đổi của thời cuộc cũng khác nhau. Thường có 3 sự lựa chọn. Một là ra đi (exit); Hai là lên tiếng (voice); và ba là trung thành (loyalty).  

Trong ba sự lựa chọn đó, có lẽ trung thành để giữ nguyên trạng là dễ nhất (vì an toàn hơn cả); Lên tiếng để thay đổi là khó nhất (vì phải chấp nhận rủi ro); Ra đi tuy không khó bằng lên tiếng nhưng cũng phải trả giá. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là chuyện ra đi, mà là ra đi như thế nào, và ra đi vì lý do gì (chính đáng hay bất minh).

Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (còn gọi là “bỏ phiếu bằng chân”). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đình các quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an.   

ĐBQH Trương Trọng Nghĩa bức xúc, “Tại sao trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh nhân giỏi muốn bỏ nước ra đi? Tại sao cán bộ về hưu hay đương chức tìm cách cho con cháu mình ra định cư ở nước ngoài?”  Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan bình luận, “Ai cũng định cư ở nước ngoài cả thì đất nước này lấy ai xây dựng đâyTôi cho rằng nhân tố cảm thấy kém an toàn là nhân tố chính khiến người Việt rời khỏi Việt Nam”. Bà Lan lý giải, “Khi họ có khoản thu nhập không đàng hoàng thì họ có tâm lý nơm nớp sợ bị lộ nên phải tranh thủ khi còn cơ hội, còn quyền lực thì cho con ra nước ngoài…”

Ví dụ, Nguyễn Thị Nguyệt Hường là một đại gia có tham vọng chính trị. Vấn đề không phải vì bà Hường có tài sản và quốc tịch Malta (tương tự như Panama hay Virgin Islands) vi phạm quy định của Quốc Hội nên bị bãi miễn ĐBQH, mà còn vì mâu thuẫn lợi ích nhóm nên bị thanh trừng. Trường hợp của chị Hường cũng giống trường hợp của doanh nhân Đặng Hoàng Yến và Đặng Thành Tâm (Tập đoàn Tân Tạo). Đó là những đại gia gắn với nhóm lợi ích, nên khi thất thế dễ bị thanh trừng, phải ra đi (Như bên Trung Quốc)  

Trương Đình Anh (đã từng là CEO của FPT) là một doanh nhân thành đạt, có tài và có tiền, có thể đóng góp nhiều cho đất nước. Anh không bất đồng chính kiến hay khó khăn gì về kinh tế. Những người như Anh ra đi là tổn thất cho đất nước, như một chỉ dấu (indicator) về tình trạng “chảy máu chất xám” (brain drain) và “thất thoát tài sản” “wealth drain”. Nhiều người lo ngại sau Trương Đình Anh sẽ có nhiều người khác tương tự ra đi.

Theo số liệu của UN DESA, từ 1990 đến 2015 có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài. Trung bình mỗi năm có 100 nghìn người di cư. Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia di cư nhiều nhất khu vực Đông Á – Thái Bình Dương (tính đến 2013). Hầu hết người Việt di cư đến các nước phát triển, trong đó đông nhất là Mỹ (1,3 triệu), Úc (227,3 nghìn), Canada (182,8 nghìn), Pháp (125,7 nghìn), Hàn Quốc (114 nghìn), Đức (113 nghìn). Tại Đông Âu và một số nước châu Á (như Lào, Campuchia, Malaysia) mỗi nước có khoảng 10.000 người. Trong năm 2015, có 2,67% công dân Viêt Nam sinh sống tại nước ngoài.

Theo Kim Hạnh (cựu Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Tiếp thị), người Việt đang  ra đi ngày càng nhiều (cùng với dòng vốn), trong đó có nguồn nhân lực di cư theo loại visa EB-3 (có bằng cử nhân trở lên) và loại visa EB-5 (doanh nhân có vốn đầu tư đáng kể). Mỗi năm chính phủ Mỹ cấp hơn một trăm nghìn visa nhập cư, trong đó có khoảng 40 nghìn visa thuộc loại EB-3. Đối với loại visa EB-5, năm 2014 chỉ có 6,418 trường hợp định cư, đến năm 2015 con số này đã đã tăng vọt lên tới 17,662 trường hợp. Khoảng một năm lại đây, số người xin visa định cư tại các nước phát triển đã tăng lên khoảng 30%.

Việt Nam có khoảng hơn 100 ngàn du học sinh ở 49 quốc gia, trong đó có 90% du học tự túc. Riêng tại Mỹ có 28.883 sinh viên, tại Úc có 28.524 (tính đến 10/2015). Việt Nam có khoảng 600 ngàn lao động làm ở nước ngoài (gọi là “xuất khẩu lao động”). Hàng trăm ngàn phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc (gọi là “Cô dâu Việt”). Nhiều công ty khởi nghiệp của giới trẻ có học thức trong lĩnh vực IT và kinh doanh về Internet đang chạy qua Singapore. Trong khi đó một số nghệ sĩ Việt di cư hợp pháp sang Mỹ qua kết hôn với Việt kiều có quốc tịch Mỹ (như Thu Phương, Trần Thu Hà, Lam Trường, Bằng Kiều, Quang Dũng, v.v.).

Cách thức di cư của người Việt ngày càng đa dạng và phức tạp, quy mô di cư ngày càng lớn. Người dân ra đi chủ yếu vì khủng hoảng lòng tin và môi trường sống không an toàn (thực phẩm, môi trường, giáo dục, an ninh bất ổn). Trí thức cảm thấy thiếu tự do dân chủ, tuyệt vọng và bất lực vì đất nước chậm đổi mới và phát triển. Doanh nhân ra đi để “phân tán rủi ro” (chân trong chân ngoài). Quan chức (tham nhũng) ra đi để bảo vệ tài sản…

Một số doanh nghiệp lớn đang thoái vốn để tháo chạy. Năm 2015, tập đoàn Kinh Đô đã bán 80% cổ phần cho Mondele’s International (Hoa Kỳ), tương lai có thể thoái vốn tới 97%. Ông chủ Kinh Đô nói, “Khi Kinh Đô đã bán cho nước ngoài, thì khó có doanh nghiệp Việt Nam nào có thể trụ lại được.” Đợt thoái vốn tới sẽ là Vinamilk và FPT Telecom. Vinamilk được khuyến cáo là sẵn sàng bán cho nước ngoài 100% cổ phần.

Theo số liệu của viện VEPR (quý I/2015), lượng tiền của người Việt gửi ra nước ngoài đã tăng đột biến lên 7,3 tỷ USD. Trong vòng 5 năm (2008-2013), số tiền từ Việt Nam đã chuyển ra nước ngoài là 33 tỷ USD (Vũ Quang Việt). Theo hồ sơ Panama, 92 tỷ USD đã được chuyển phi pháp ra khỏi Việt Nam (năm 2015 là hơn 9 tỷ). Đó là những con số thất thoát quá lớn, trong bối cảnh ngân sách nhà nước thâm hụt quá nhiều do bội chi ngân sách.

Bi kịch của Trung Quốc

Ngày càng nhiều người Trung Quốc “bỏ phiếu bằng chân”. Họ di cư khỏi Trung Quốc với tài sản để định cư ở nước khác. Từ năm 1990 đến 2000, trung bình mỗi năm có 143 nghìn người di cư. Từ năm 2000 đến 2010 con số này tăng lên đến 418 nghìn người/năm. Từ 1993 đến 2015, tổng số dân di cư đã tăng từ 4,1 triệu người lên 10 triệu người, trong đó có 2,02 triệu người định cư tại Mỹ, 896 nghìn người tại Canada, 657 nghìn người tại Hàn quốc, 655 nghìn người tại Nhật, 547 nghìn người tại Úc, và 457 nghìn người tại Singapore.

Từ năm 1978 đến 2003 có 4.000 quan chức tham nhũng chạy trốn khỏi Trung Quốc, đem theo hơn 50 tỷ USD. Từ giữa thập niên 1990 đến nay, có 18.000 quan chức tham nhũng chạy ra nước ngoài, đem theo 123 tỷ USD. Hầu hết họ chạy sang các nước Phương Tây (như Mỹ, Canada, Úc, Hà Lan). Cơ quan an ninh Trung Quốc cho biết có 150 tội phạm kinh tế đang sống tại Mỹ để trốn tránh cáo buộc tham nhũng tại Trung Quốc.

Theo Hurun Report, có 64% số người giàu (có 1,6 triệu USD trở lên) đã hoặc có ý định di cư khỏi Trung Quốc. Hiện nay có 1,2 triệu người sẵn sàng ra đi. Người ta xác định có 149 người Trung Quốc siêu giàu, với tài sản trên 1,6 tỷ USD. Danh sách siêu giàu này còn tăng thêm 150 người nữa nếu tính cả “tài sản ngầm” của họ. Theo GFI Report, Trung Quốc đã thất thoát mất 3,79 ngàn tỷ USD trong thời gian từ năm 2000 đến 2011.

Theo Bloomberg Intelligence, 1,4 nghìn tỷ USD đã chạy khỏi Trung Quốc trong 10 năm qua (trung bình 140 tỷ/năm). Năm 2015, 1.000 tỷ USD đã chạy khỏi Trung Quốc, tăng gấp 7 lần so với năm 2014 (là 134,3 tỷ). Đây là do khủng hoảng lòng tin, khó lòng ngăn chặn nổi, dù Trung Quốc có xây vạn lý trường thành xung quanh đất nước.  

Năm 2004, chỉ có 16 người Trung Quốc nhận được visa loại EB-5 (13% tổng số); Năm 2008 con số này tăng lên tới 360 người. Đến 2013, con số này đã tăng vọt lên 6.895 người (chiếm 80% tổng số). Năm 2014, có 9.128 người Trung Quốc nhận được visa EB-5 (chiếm 85% tổng số 10.692 visas EB-5 được cấp). Người Trung Quốc chiếm 85% tổng số người xin visa EB-5 để đầu tư vào Mỹ, chiếm 76% tổng số 59.000 người xin visa đầu tư vào Canada; chiếm 91% của 1.679 người xin visa đầu tư vào Úc (từ 2012 đến 2015).

Năm 2014, số sinh viên Trung Quốc đi học ở nước ngoài là 459.800 người, trong đó 274.000 người học tại Mỹ. Tuy chính phủ Trung Quốc có chủ trương khuyến khích vật chất như trả lương cao để họ trở về nước làm việc, nhưng xu hướng “chảy máu chất xám” vẫn gia tăng. Trung Quốc vẫn tiếp tục mất đi một tỷ lệ khá cao những sinh viên đi học nước ngoài nhưng không về nước (tỷ lệ cao hơn hầu hết các nước khác).

Người giàu Trung Quốc không ủng hộ mà cũng không thách thức chế độ. Họ chỉ muốn chuyển phần lớn tài sản ra nước ngoài rồi ra đi. Họ không giống những người bất đồng chính kiến hay tị nạn chính trị. Thái độ ứng xử của họ có thể thay đổi với lòng yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc. Khi ra đi dễ dàng thì họ lựa chọn ra đi, chứ không chọn lên tiếng. Họ sẽ lên tiếng mạnh hơn nếu chính quyền cởi mở hơn cho phản biện và cải cách

Những người giàu có ở Trung Quốc được hưởng lợi lộc nhiều nhất từ sự tăng trưởng kinh tế, nhưng họ lại bỏ đất nước ra đi, thay vì lên tiếng phản biện và góp sức đổi mới đất nước. Một thập kỷ qua, việc họ ra đi đã làm Trung Quốc thất thoát hàng nghìn tỷ USD và chảy máu chất xám nghiêm trọng. Giới nhà giàu đã chuyển 458,3 tỷ USD ra khỏi Trung Quốc, trong tổng số 5,45 ngàn tỷ USD tài sản của họ. Con số thất thoát này bằng 3% GDP. Đây là một vấn nạn kinh tế, vừa “chảy máu chất xám” vừa “thất thoát tài sản”. 

Chính phủ Trung Quốc đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng ngân sách nghiêm trọng do hệ quả của sự ra đi ồ ạt của tầng lớp giàu có nhất, và tiếng nói phản biện của tầng lớp trung lưu và lao động. Sức ép từ cả hai phía có thể buộc Chính phủ phải cải cách thể chế một cách có ý nghĩa như là sự lựa chọn duy nhất để tránh nguy cơ sụp đổ.  

Theo các học giả, Trung Quốc đã hết lợi thế phát triển và đã “kịch đường” (Paul Krugman). Kinh tế đang nguy khốn (in big trouble), tài chính có thể phân rã (meltdown). Lợi thế dân số không còn (Gordon Chang). Chủ nghĩa chuyên chế có sức sống đã hết thời (David Shambaugh). Tỷ phú George Soros dự báo kinh tế Trung quốc sẽ “hạ cánh cứng” (hard landing) có thể khủng hoảng như Nga (năm 2014). Trước đây Mỹ lo Trung Quốc vượt mặt, nay lo Trung Quốc sụp đổ, gây sốc lớn cho kinh tế toàn cầu, trong khi họ chưa sẵn sàng đối phó. (“When China Stumbles”, Paul Krugman, New York Times, January 8, 2016).

Nghịch lý của “Mô hình Trung Quốc”

Sau khi Tập Cận Bình tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay mình, ông ta đã phục hồi những ý tưởng cực đoan của Mao Trạch Đông, như độc tài và sùng bái cá nhân, tuyệt đối tuân thủ hệ tư tưởng, hành xử độc đoán. Đó là sự kết hợp đầy nghịch lý giữa độc tài kiểu Mao với hiện đại hóa kiểu Đặng. Tập nắm nhiều quyền lực còn hơn cả Mao và Đặng (nhưng không bắt chước Đặng). Tập đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tăng cường kỷ luật đảng, để duy trì ổn định chính trị (là ưu tiên hàng đầu), và để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”.

Vì vậy, Tập Cận Bình đòi hỏi tất cả phải trung thành tuyệt đối với Đảng, với chế độ, và với cá nhân ông ta. Tập tăng cường đàn áp mọi sự chống đối, kể cả xã hội dân sự, giám sát chặt chẽ giới trí thức, kiểm soát khắt khe giới báo chí truyền thông, và chống lại mọi giá trị phổ quát của phương Tây. Kể từ sau sự kiện Thiên An Môn, chưa bao giờ xã hội Trung Quốc lại hà khắc như hiện nay, làm giới cải cách và dân chúng rất bất bình.   

Tập thậm chí không tin các ủy viên thường vụ Bộ Chính trị khác, mà chỉ tin vào một nhóm trợ lý thân cận nhất như Vương Kỳ Sơn (trưởng ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương – CCDI, phụ trách chống tham nhũng), Lật Chiến Thư (chánh Văn phòng Trung ương – CCP, phụ trách nhân sự), Mạnh Kiến Trụ (phụ trách Ủy Ban An ninh Quốc gia), Lý Thành (học giả, phụ trách lý luận), và Vương Thiếu Quân (phụ trách an ninh riêng).    

Ván cờ của Tập Cận bình phải dùng đến ý thức hệ để cai trị thực ra không dựa trên sức mạnh đang lên mà bộc lộ thế yếu đang xuống (breaking down, rather than building up). Chế độ Trung Cộng rất dễ đổ vỡ vì kinh tế Trung Quốc đang suy thoái một cách đáng lo ngại, làm cho những người cải cách bất bình và dân chúng nổi giận. Nói cách khác, những mưu toan của Tập có thể tạo ra chính sự khủng hoảng mà Tập đang muốn tránh.

Tập đã phát động một cuộc vận động ý thức hệ rộng lớn, lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để che đậy những lỗ hổng của chế độ. Nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan cũng là con dao hai lưỡi, và chơi với ý thức hệ cũng nguy hiểm như đùa với lửa. Xét cho cùng, Tập có thể bắt chước Mao, nhưng không thể hóa thành Mao. Sự đàn áp dựa trên ý thức hệ không mang lại lời giải nào cho các vấn đề của Trung Quốc, và không thể kéo dài mãi. Nước cờ của Tập không phản ánh sức mạnh mà bộc lộ sự lúng túng, và thú nhận sự mỏng manh của chế độ.

Theo Suisheng Zhao (“Xi Jinping’s Maoist Revival” Suisheng Zhao, Journal of Democracy, July 2016), ngày 17/3/2013, Tập đề xướng chủ trương “ba tin tưởng”: (1) lý luận về “Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc,” (2) con đường mà Trung Quốc theo đuổi, và (3) hệ thống chính trị mà Trung Quốc” lựa chọn. Đây là câu trả lời của Tập cho “ba cuộc khủng hoảng niềm tin” (chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx, và Đảng). Quan điểm Maoist của Tập ngày càng cứng rắn, đe dọa sử dụng “chuyên chính vô sản”, và tiến hành “đấu tranh giai cấp”. 

Tập đã vay mượn “cẩm nang của Mao”, sử dụng những khẩu hiệu sặc mùi Maoist như “bảy điều đừng nói” để tránh “các sai lầm lịch sử không thể sửa chữa được”, và kêu gọi cán bộ đảng viên phải “tự thanh lọc, tự cải thiện, tự đổi mới…”

Về giáo dục, Tập kêu gọi phát huy “năng lượng tích cực” với một “thái độ tươi sáng” đối với Đảng và nhà nước, biến các trường đại học thành “các lò nghiên cứu Maxist”. Theo chủ trương đó, tháng 1/2015, Bộ trưởng giáo dục Yuan Guiren (Viên Quý Nhân) đã đề xuất “hai củng cố”, nhằm hạn chế việc sử dụng các nguồn học liệu của phương Tây trong nội dung giảng dậy, để cảnh giác đối phó với “các rủi ro tư tưởng”.

Về truyền thông báo chí, Tập Cận Bình ép buộc các nhà báo phải ngừng phê phán Đảng CSTQ, và kêu gọi họ “nói bằng một giọng” và “tường thuật tích cực” để ủng hộ các chính sách của đảng. Trong bài phát biểu tại hội nghị tuyên truyền (8/2013), Tập nói huỵch toẹt ra rằng các chính trị gia phải “vận hành các báo”, và nhà báo phải trở thành “cái họng và cái mồm” (the throat and the mouth) của Đảng.

Bắc Kinh nhấn mạnh khái niệm “chủ quyền không gian mạng” và cho rằng các công nghệ truyền thông mới đang phá vỡ các ràng buộc không gian và thời gian, làm mờ nhạt sự phân biệt giữa tác giả, nhà xuất bản, và công chúng của thị trường tin tức. Khái niệm này hình dung ra một thế giới mạng trong đó các nhà chức trách sẽ “tuần tra” các cuộc nói chuyện online giống như tuần tra kiểm soát biên phòng.

Tháng 7/2015, Chính phủ đã thông qua dự luật an ninh mạng, theo đó sẽ lập ra “các đồn cảnh sát an ninh mạng” để kiểm soát các website và các hãng cung cấp dịch vụ Internet, nhằm “tóm cổ các hành vi phạm tội online” càng sớm càng tốt. 

Một blogger Trung Quốc đã cảnh báo, “các tường rào trong nhà tù thông tin Trung Quốc nơi sự ngu dốt nuôi dưỡng các tư tưởng hận thù và đối kháng. Nếu bức tường lửa tồn tại vô hạn định, Trung Quốc sẽ quay lại cái thời mà nó bị cô lập, thiển cận, hung hăng, và bất ổn”. 

Nhà sử học Xiao Gongqing gọi chính thể của Tập là “Neo-Authoritarianism 2.0”. Theo ông, “Chủ nghĩa Độc đoán Mới 2.0” là cần thiết nếu Trung Quốc muốn tránh tai họa trong cuộc “trường chinh” tiến đến trật tự dân chủ hóa. Xét cho cùng, Đảng là nạn nhân của thành công cũng như thất bại của chính họ. Không có nước nào lại hiện đại hóa nhanh như Trung Quốc mà không phải chịu các hệ quả xã hội to lớn như vậy.  

Sự ổn định chính trị và sự sống còn của chế độ là mối quan tâm chủ yếu của Tập Cận Bình, “Sự ổn định cao hơn mọi thứ”. Vì vậy, Tập quyết tâm phải “bóp chết mọi yếu tố chống đối từ trong trứng nước”. Tập đã bị chỉ trích không những bởi những người ủng hộ cải cách, mà còn bởi những người cánh tả cấp tiến. Chế độ kiểm duyệt tăng lên cùng với mối lo về khả năng quản lý sự bất mãn của dân chúng. Trong thời đại Internet, việc khóa miệng sự bất mãn là hầu như không thể. Cái gậy hạn chế quyền tự do trực tuyến có thể “đập lại lưng ông”, bằng việc gây thêm oán hận và mất lòng tin. Đồng thời nó cũng kìm hãm sự phát triển của đất nước vì các nhà khoa học và doanh nhân khó tiếp cận với các nguồn lực trực tuyến vốn đã làm cho Internet trở thành tác nhân đổi mới và phát triển.  
 
Sự lẫn lộn về lý luận được minh họa rõ ràng qua các giá trị XHCN cốt lõi mà ban lãnh đạo của Tập đưa ra từ năm 2013 và được đăng tải khắp nơi ở Trung Quốc. Nó bao gồm “sự thịnh vượng, dân chủ, văn minh, hài hòa, tự do, bình đẳng, công lý, pháp quyền, chủ nghĩa yêu nước, cống hiến, chính trực, hữu nghị…” Tóm lại đó là một danh sách gồm đủ các từ ngữ chắp vá lộn xộn, chứ không bắt nguồn từ một tầm nhìn chính trị mạch lạc. Vì vậy, “Chủ nghĩa Độc đoán Mới 2.0” có thể là sự kéo dài vô hạn chủ nghĩa độc đoán, chứ không phải là sự chuẩn bị quá độ tiến đến cải cách dân chủ cho quản trị quốc gia.

Theo Cheng Xiaonong (Chủ nghĩa Tư bản với Bản sắc Trung Quốc, Epoch Times, 19/8/2016), Đảng CSTQ đã sử dụng kinh tế tư bản để tăng cường chế độ độc tài. Đây là một điểm mấu chốt của “Mô hình Trung Quốc”. Chế độ Trung Cộng đã bắt tay với hệ thống kinh tế Tư bản (từ thời Đặng Tiểu Bình kêu gọi “mèo trắng, mèo đen, miễn là bắt được chuột”). Không những Đảng CSTQ chấp nhận CNTB, mà hàng ngũ lãnh đạo Đảng còn tự mình trở thành những nhà “tư bản đỏ” giàu có đầy quyền lực. Mô hình “Kinh tế Thị trường theo Định hướng Xã hội Chủ nghĩa” của Việt Nam chỉ là bản sao của “Mô hình Trung Quốc”.  

Về cơ bản, giới “tư bản đỏ” đã thâu tóm tài sản thông qua tham ô, biển thủ, chiếm đoạt bất hợp pháp các tài sản nhà nước, duy trì sự độc quyền của các ngành quan trọng, và thao túng các chính sách để đạt được lợi ích và duy trì chế độ độc tài của mình. Họ đã trở thành các doanh nhân, chủ bất động sản và chủ sở hữu tài chính lớn. Quá trình tích lũy của họ đầy đen tối và tội lỗi. Vì vậy, họ cần chế độ bảo vệ tài sản và cuộc sống của mình. Họ cũng cần sự độc quyền của nhà nước để tiếp tục tích lũy của cải nhiều hơn nữa.

Nhiều học giả phương Tây đã tưởng bở rằng sau quá trình tự do hóa kinh tế, giới ‘tư bản đỏ” Trung Quốc sẽ tự nhiên chuyển đổi theo khuynh hướng dân chủ và tự do. Thực tế quá trình chuyển đổi của Trung Quốc đã chứng minh rằng suy nghĩ này không những rất ngây thơ mà còn sai lầm nghiêm trọng. Giới “tư bản đỏ” có một vị thế chính trị tuyệt vời (không có cạnh tranh) nên họ dễ dàng ngăn chặn quá trình dân chủ hóa, có thể dẫn đến sự phá sản kinh tế và chính trị. Đây chính là bản chất của “Mô hình Trung Quốc”.

Thay vì lên tiếng góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa tại Trung Quốc, giới “tư bản đỏ” lại chuyển tài sản cá nhân của họ đến các nước phương Tây, trong khi thu xếp cho các thành viên trong gia đình của mình nhập cư vào các nước đó. Đây là một nghịch lý. Chính điều này chỉ ra rằng tương lai của “Mô hình Trung Quốc” thực sự mỏng manh. “Mô hình Trung Quốc” vừa mâu thuẫn với chủ nghĩa Mác, vừa trái ngược với nền dân chủ. Trong tương lai gần, Đảng CSTQ không thể tránh khỏi một cuộc khủng hoảng ý thức hệ. Bộ máy chuyên chính tuy có thể ngăn chặn được sự bùng nổ (explosion) nhưng không ngăn ngừa được sự suy sụp (implosion). Tập Cận Bình muốn tránh vết xe đổ của Liên Xô, nhưng không thoát được quy luật lịch sử.

Lối thoát duy nhất là phải cải cách thể chế chính trị đã lỗi thời. Thượng Tướng Lưu Á Châu (con rể cựu phó thủ tướng Lý Tiên Niệm, có nhiều phát biểu gây tranh cãi) đã cả quyết, “Trong vòng 10 năm nữa, một cuộc chuyển hình thái từ nền chính trị uy quyền sang nền chính trị dân chủ chắc chắn sẽ phải xảy ra, Trung Quốc sẽ có một sự biến đổi to lớn. Cải cách thể chế chính trị là sứ mệnh lịch sử trao cho, chúng ta không còn có đường lùi”.

La Vũ (con trai của cố đại tướng La Thụy Khanh, là bạn thân của Tập Cận Bình) đã đăng một loạt 10 bài viết công khai khuyến nghị với Tập Cận Bình rằng lối thoát duy nhất của Trung Quốc là từng bước dân chủ hóa. Ngày 19/6/2016, La Vũ đã cho đăng bài thứ 10 trong loạt bài với nhan đề “Bàn bạc với chú em Tập”, trong đó La Vũ thẳng thắn vạch ra rằng chính quyền Trung Quốc từ lâu không được lòng dân, “đến hôm nay, đã không còn được lòng dân nữa“. La Vũ khuyên Tập, “Người dân sẽ không cho chú nhiều thời gian nữa đâu“.  Trong lá thư viết cho Tập, La Vũ đề xuất 5 điểm: “xóa bỏ lệnh cấm báo chí; xóa bỏ các lệnh cấm của Đảng; có hệ thống tư pháp độc lập; tuyển cử; quốc gia hóa quân đội”.
Dư luận Trung Quốc và thế giới đang quan tâm đến Hội nghị cơ mật Bắc Đới Hà (8/2016). Trang mạng Weixin lan truyền tin Tập Cận Bình đề xướng “20 chinh sách cải cách chính trị-xã hội”. Không biết thực hư ra sao, nhưng người dân Trung Quốc đang háo hức chờ mong. Ngày 18/7/2016, trang  mạngMingjingnews.com đăng bài xã luận nhận xét: “Hội nghị Bắc Đới Hà lần này sẽ là hội nghị căng thẳng nhất từ trước đến nay…”. TrangWeixinqz.com cũng đưa tin: “Tập Cận Bình sắp tới sẽ có những tuyên bố về chính sách cải cách to lớn, khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc…” Đó là Trung Quốc, còn Việt Nam?

Thay lời kết

Đáng lẽ phải “xoay trục” để thoát dần cái bóng Trung Quốc, thì Việt Nam vẫn núp bóng ý thức hệ đã lỗi thời và bắt chước “Mô hình Trung Quốc, mà không có tiềm lực kinh tế và quốc phòng đủ mạnh làm đối trọng để thoát Trung. Ý thức hệ là cái bẫy làm Việt Nam bị mắc kẹt tại ngã ba đường, nên bảo hoàng hơn cả vua, làm mất dần độc lập kinh tế và chủ quyền quốc gia. Khái niệm trung với nước bị đánh tráo, trở thành trung với Đảng và chế độ. Vì vậy, tiếng nói phản biện vì tương lai của dân tộc thường bị coi là “phản động”.

Đã đến lúc người Việt phải thức tỉnh để đổi mới tư duy và thể chế, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Trước xu hướng người Việt đang đổ xô di cư, cần có cách khuyến khích họ ở lại để chung tay chấn hưng đất nước, khôi phục các giá trị cốt lõi của dân tộc. Tại sao người Miến Điện và người Mông Cổ làm được mà người Việt Nam lại không?  Aung San Suu Kyu và Tsakhiagiin Elbegdorj đâu phải là siêu nhân từ trên trời rơi xuống. Nhưng họ không bỏ nước ra đi vì lợi ích riêng, và cũng không chấp nhận thực trạng độc tài của đất nước, mà kiên trì đấu tranh (bất bạo động) để thay đổi vận mệnh của dân tộc họ.  

Quyền tự do cư trú và di cư là quyền chính đáng của mọi công dân, là chuyện bình thường của mọi xã hội. Nhưng hiện tượng nhiều người bỏ đất nước ra đi ồ ạt như hiện nay tại Trung Quốc và Việt Nam là chuyện bất bình thường. Nó phản ánh não trạng bất an của cộng đồng và thực trạng bất ổn của đất nước. Tại sao người ta không ở lại để lên tiếng phản biện và góp phần đổi mới thể chế và phát triển đất nước?  Câu chuyện đi hay ở không chỉ là bi kịch, mà còn là thảm họa quốc gia. Phải đổi mới thể chế trước khi quá muôn.

Tham khảo

  1. “Exit, Voice and Loyalty: Responses to Decline in firms, Organization, and States”, Albert Hirschman, Harvard University Press, 1970
  2. “The Flight of the Affluent in Contemporary China: Exit, Voice, Loyalty, and the Problem of Wealth Drain”, Steve Hess, Asian Survey, July/August 2016

     3. “When China Stumbles”, Paul Krugman, New York Times, January 8, 2016

  1. “Xi Jinping’s Maoist Revival” Suisheng Zhao, Journal of Democracy, July 2016
  2. “Chủ nghĩa tư bản với bản sắc Trung Quốc”, Trình Hiểu Nông (Cheng Xiaonong), Epoch Times, 19/8/2016
  3. “Ôm tiền ra ngoại quốc: cuộc tháo chạy mới ở Việt Nam”, Người Việt, 31/7/2016

      7. “Mỗi năm gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài”, Hồ Mai, VNF, 24/7/2016

Giấc mơ bất tử của Hồ là cơn ác mộng bất tận của bao thế hệ người Việt

Richard M. Nixon * Trần Quốc Việt dịch - Hội nghị Geneva năm 1954 giải quyết tạm thời vấn đề ai sẽ là người thay thế người Pháp. Hội nghị tuyên bố chia Việt Nam thành hai nước, Bắc Việt cộng sản và Nam Việt độc lập. Nhưng số phận lâu dài của Việt Nam và của Mỹ tại Việt Nam đan quyện vào số phận của hai nhà lãnh đạo: Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm.

Nếu hình ảnh nổi tiếng của Hồ Chí Minh là một chỉ dấu thì ông ắt hẳn có tổ chức tuyên truyền tốt nhất thế giới phục vụ ông. Đường lối điển hình của Hồ thường là như thế này: tuy là cộng sản nhưng quan trọng nhất Hồ vẫn là người quốc gia.

Thật ra, Hồ Chí Minh là kẻ lừa gạt rất khéo mà suốt đời giả vờ là con người hoàn toàn ngược lại với con người thật của mình. Ông chỉ là người quốc gia theo nghĩa ông không thể thiết lập nhà nước cộng sản ở Việt Nam nếu Việt Nam là một phần của đế quốc Pháp. Ông chỉ trung thành với việc đoạt được quyền lực cho bản thân và ý thức hệ của ông.

Các lực lượng chiếm đóng hậu chiến Anh, Hoa Kỳ, và Trung Hoa sắp rời Việt Nam, còn Pháp quay trở lại. Mặc dù các tổ chức quốc gia từ chối hợp tác với người Pháp, nhưng Việt Minh cộng sản lại quyết định cộng tác. Hồ ký cái gọi là hiệp định ngày 6 tháng Ba đã đưa quân đội Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam.

Hồ và người Pháp cùng nhau sát hại hàng trăm nhà lãnh đạo và hàng ngàn thành viên thường của các tổ chức quốc gia. Người Pháp cấp cho Việt Minh các thiết bị quân sự, binh lính, và yểm trợ cả pháo để thực hiện điều này. Vào tháng Bảy 1946, những lực lượng của Hồ bất ngờ tấn công vào các trụ sở của tất cả các tổ chức quốc gia còn sót lại trong khi các thiết vận xa Pháp cô lập các khu vực chung quanh. Hầu hết vài nhà lãnh đạo đối lập còn sót lại đã bị bắt và sau đấy bị giết. Khi người Pháp bất ngờ tấn công Việt Minh vào tháng Mười Một 1946, chẳng phải ngẫu nhiên Hồ trở thành nhà lãnh đạo kháng chiến quan trọng duy nhất. Ông đã giết hầu hết tất cả những người khác.

Ý tưởng cho rằng Hồ chí Minh chủ yếu là người Việt quốc gia thực ra không có cơ sở. Thay vì hợp tác với những người quốc gia để giành độc lập, ông dành cả đời người tiêu diệt tất cả những người quốc gia độc lập, cho dù điều này có nghĩa là công khai cộng tác với thực dân Pháp. Mặc dù ông nói hay về chủ nghĩa dân tộc, nhưng quan trọng nhất Hồ vẫn là người cộng sản toàn trị. Ông dùng chủ nghĩa dân tộc để phục vụ chủ nghĩa cộng sản thay vì ngược lại.

Sự chọn lựa duy nhất khác với Hồ và cộng sản là ở Miền Nam Việt Nam. Ngô Đình Diệm đã xây dựng nên nhà nước căn bản là tự do nhưng, theo tiêu chuẩn Mỹ, không hoàn toàn tự do. Giống như hầu hết các nhà lãnh đạo hậu thuộc địa, ông cầm quyền theo cách thức mà nhận được sự khích lệ một phần từ các mô hình nghị viện Châu Âu, một phần từ các mô hình Châu Á truyền thống, và một phần do hoàn cảnh bắt buộc

Khác với Hồ, Diệm là người quốc gia chân chính. Ông xuất thân từ một gia đình quyền thế ở kinh đô Huế và nổi tiếng là người chống chủ nghĩa thực dân Pháp mãnh liệt.

Diệm được lòng dân phần lớn nhờ những chương trình xã hội và cải cách rộng lớn mà ông đã lập ra với sự giúp đỡ về tài chánh và kỹ thuật của Mỹ. Trường học mọc lên khắp nơi ở miền quê. Ruộng đất được chia cho tá điền. Phun thuốc trừ sâu để diệt sốt rét. Sản xuất gạo tăng vọt. Xây dựng nhiều cầu đường. Đầu tư ngoại quốc gia tăng. Công nghiệp nhẹ bất ngờ xuất hiện quanh Sài Gòn. Mặc dù các chương trình của ông thường tạo ra gánh nặng lên khả năng hành chánh còn thiếu thốn của chính quyền nhưng kết quả của chúng mang lại lợi ích rất lớn.

Khi hai nhà lãnh đạo này được so sánh bên cạnh nhau, ý kiến gợi ý rằng Hồ sẽ thắng phiếu Diệm trong cuộc tranh cử trực tiếp dường như thật nực cười. Tuy nhiên trong chiến tranh nhiều người chỉ trích nỗ lực cứu Miền Nam Việt Nam của Mỹ lại bàn đến chính điểm này. Họ nói Tuyên bố Geneva năm 1954 về mặt pháp lý buộc chính quyền của Diệm và Hoa Kỳ phải thống nhất hai miền Việt Nam thông qua bầu cử và tất yếu cuối cùng Hồ sẽ thắng cử. Họ sai cả hai.

Cho dù họ nói bất kỳ điều gì chăng nữa về bầu cử, hành động của họ vẫn phơi bày ý định của họ: họ đã thiết lập hai chính quyền, cho phép hai lực lượng quân đội riêng, và tổ chức cho người tỵ nạn đi lại giữa hai miền. Thật là ngu dại khi đã trải qua tất cả bao khó nhọc này vào 1954 rồi chỉ để đảo ngược lại và xóa bỏ nó sau bầu cử vào 1956.

Dù thế nào đi nữa toàn bộ ý tưởng ấy cực kỳ không thực tế. Thống nhất được cho là được quyết định qua cuộc bầu cử tự do. Vì bầu cử ở Bắc Việt sẽ không tự do. Nam Việt có thể phản đối một cách chính đáng việc tổ chức bầu cử. Bế tắc là tất yếu.

Khi đã đến lúc thảo luận bầu cử vào 1956, Diệm từ chối tham dự, và Hoa Kỳ ủng hộ ông. Chúng ta không sợ tổ chức bầu cử ở Việt Nam, miễn là bầu cử được tổ chức theo những điều kiện tự do thật sự như Tuyên bố Geneva yêu cầu. Nhưng chúng ta biết rằng những điều kiện này sẽ chỉ tồn tại ở Nam Việt. Sau khi dành hai năm nghiền nát tất cả những tàn tích của tự do ở Bắc Việt, những nhà lãnh đạo Hà Nội sẽ không bao giờ cho phép những cuộc bầu cử tự do dưới sự giám sát quốc tế để quyết định số phận của họ. Sau những cuộc thương nghị về sau, Liên Xô đồng ý rằng không thể thực hiện được cuộc trưng cầu dân ý.

Hồ sẽ không thể thành công trong cuộc bầu cử công bằng. Vào 1954 cứ trong 13 người Miền Bắc có một người đào thoát ra khỏi nước hơn là phải sống dưới ách cai trị của ông. Cái gọi là chương trình cải cách ruộng đất của ông làm kinh động cả nước, gây ra nạn thiếu hụt thực phẩm trầm trọng, và châm ngòi cho những cuộc nổi dậy lớn của nông dân mà bắt đầu từ tỉnh quê hương của Hồ rồi lan ra ít nhất hai tỉnh khác. Tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy lực lượng Việt Minh ở Điện Biên Phủ, về sau thừa nhận rằng để dẹp tan cuộc nổi dậy ấy chính quyền ông đã giết 50,000 người. Đến 1956, Hồ hầu như không phải là người đứng đầu danh sách ứng cử viên.

Diệm, lúc ấy rất được lòng dân, sẽ thắng chắc chắn. Chỉ có một lý do duy nhất tại sao những nhà lãnh đạo Bắc Việt không bao giờ dám tổ chức những cuộc bầu cử tự do thật sự: Họ biết họ sẽ thua.

Thật là phi lý về pháp lý, xuẩn ngốc về chiến lược, nực cười về đạo lý nếu Hoa Kỳ buộc Nam Việt tổ chức bầu cử mà gian lận trắng trợn để bảo đảm cộng sản chiến thắng.

Hồ không bao giờ dao động trong quyết tâm thống nhất hoàn toàn Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Không bao giờ có vấn đề ông sẽ cố gắng chiếm Nam Việt hay không, mà chỉ có vấn đề ông sẽ cố thực hiện điều ấy vào khi nào và bằng phương tiện gì.

Theo những tài liệu bị tịch thu và theo những lời khai của những người cộng sản cấp cao đã đào thoát, quyết định chiếm Nam Việt của Bắc Việt có liền ngay sau Hội nghị Geneva. Hồ chờ một vài năm trước khi bắt đầu tấn công. Ông cần củng cố quyền lực ở Bắc Việt trước, và ông tiên liệu chính quyền của Diệm sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn ngay sau khi phân chia đất nước để rồi tự sụp đổ.

Nhưng ông bắt đầu chuẩn bị tấn công Miền Nam trước khi chữ ký của các đại biểu của ông còn chưa ráo mực trên hiệp định ngừng bắn ở Geneva. Ông đã cam kết ngưng gia tăng quân số của quân đội ông, nhưng trong vòng bốn tháng lực lượng Bắc Việt mở rộng từ bảy sư đoàn đến hai mươi sư đoàn. Trong khi đó, Nam Việt cho giải ngũ 20.000 quân. Vào tháng Năm 1959 tại đại hội mở rộng lần thứ mười lăm, Đảng cộng sản Bắc Việt ra lệnh bắt đầu tấn công.

Đến tháng Chín, cuộc xâm nhập trên diện rộng của các du kích cộng sản vào Nam Việt bắt đầu, tổng cộng lên đến 4.000 người chưa đến hai năm. Hầu hết những binh lính này là người Miền Nam đã tập kết ra Bắc vào 1954. Nhưng lý lịch của tác giả cuộc xâm nhập này rất rõ ràng. Như Tướng Giáp tuyên bố vào tháng Một 1960, “Miền Bắc đã trở thành hậu phương lớn cho quân đội chúng ta.” Với Miền Bắc phục vụ như là tuyến sau, thì tuyến đầu của mặt trận ở đâu khác ngoài trong Nam?

Nếu chiến tranh thường bắt đầu trong đầu của con người thì Chiến tranh Việt Nam bắt đầu trong đầu Hồ Chí Minh. Suốt trong 30 năm, ông đã tàn bạo theo đuổi mục tiêu thống nhất Việt Nam dưới chế độ cai trị toàn trị của ông. Giấc mơ bất tử của ông là cơn ác mộng bất tận đối với hàng triệu người Việt. Ông tưởng người Pháp giao Việt Nam cho ông qua hiệp định ngày 6 tháng Ba 1946. Ông tưởng Liên Xô và Trung Cộng giao Việt Nam cho ông trên bàn hội nghị ở Geneva vào 1954. Ông tưởng Nam Việt rơi vào tay ông sau một thời gian tạm gián đoạn ngắn ngủi dưới quyền Tổng thống Diệm. Ông có lẽ còn hy vọng thắng Nam Việt qua cuộc bầu cử thống nhất mà có thể là sự gian lận rành rành.

Vào 1959, sau khi tất cả những mơ tưởng này không thành, Hà Nội bắt đầu gây chiến tranh.


Nguồn:

Báo The Lewiston Daily Sun số ra ngày 1 tháng Tư 1985. Tựa đề của người dịch. Tựa đề trong nguyên tác: “Ho Chi Minh’s Goal: Rule All Vietnam.”


Bản tiếng Việt:

Trần Đại Quang: thôi thì thua trước cho xong!

CTV Danlambao - Hôm 30/8/2016, tại Đối thoại Singapore thứ 38 Trần Đại Quang phát biểu: “Nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột vũ trang thì không có người thắng, người thua, mà tất cả cùng thua. Câu này nhất quán nói lên chủ trương của đảng: đánh cũng thua, thôi thì không đánh và cứ thua từ từ.

Sách lược thua từng bước, thua từ từ đã được đảng nhất trí đồng ý từ sau chuyến đi đêm mật nghị Thành Đô 1990. Kể từ đó, Bắc Kinh không cần đánh, không cần một viên đạn cũng đã đi từ "thắng lợi" này qua "thắng lợi khác". Đến bây giờ thì chắc có lẽ sẽ quá thừa nếu lại liệt kê ra tất cả những "thắng lợi" bởi các "bạn" của "đảng ta" và Việt Nam đã mất những gì. 

Trong bài phát biểu với chủ đề “Đoàn kết, chung sức hành động, cùng phát triển bền vững”, ông Quang đã nói: Những diễn biến đáng quan ngại gần đây trong khu vực và trên Biển Đông đã và đang tác động tiêu cực đến môi trường an ninh khu vực, nhất là tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không, có nguy cơ làm xói mòn lòng tin, ảnh hưởng đến tiến trình hợp tác khu vực. Chủ tịch nước nhấn mạnh: “Nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột vũ trang thì không có người thắng, người thua, mà tất cả cùng thua”. 

Ông chủ tịch nước do đảng đề cử và bầu ra đã không dám nói "những diễn biến đáng quan ngại" là những hành vi, động thái gì, gây ra bởi quốc gia nào. 

Ông lấy quan điểm xung đột vũ trang sẽ dẫn đến kết quả tất cả cùng thua trong khi những tranh đấu "không vũ trang" như kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế như Philippines đã là thì đảng và nhà nước CSVN cũng nhất quyết... nói không.

Đối với vấn đề chủ quyền biển Đông, Trần Đại Quang vẫn tiếp tục cắt và dán từ những bài diễn văn cũ của đảng: "chủ trương nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình thông qua các tiến trình chính trị, ngoại giao, pháp lý, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, yêu cầu các bên liên quan nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và đàm phán thực chất Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)." 

Vẫn kiên quyết, kiên trì đấu tranh! Đây là sách lược tranh đấu bảo vệ tổ quốc của CSVN ngày hôm nay, một sách lược có một không hai: đấu tranh bằng mồm. Kiên trì bằng mồm và bằng mồm đảng ta kiên quyết.

Một nhà lãnh đạo thật sự vì tồn vong của tổ quốc, thật sự kiên quyết bảo vệ chủ quyền, thì trước cộng đồng quốc tế, ít nhất phải phát biểu được một câu như thế này: "Việt Nam luôn yêu chuộng hoà bình, luôn luôn tìm mọi giải pháp ôn hoà để giải quyết những tranh chấp. Tuy nhiên, nếu một tấc đất, tấc biển của quốc gia bị xâm chiếm thì nhà nước và nhân dân Việt Nam sẽ đứng lên bảo vệ bằng mọi giá, bằng bất kỳ phương thức nào, ngay cả chiến tranh vốn là điều không ai muốn."

Nhưng với Trần Đại Quang thì phải là:

“Nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột vũ trang thì không có người thắng, người thua, mà tất cả cùng thua”. 

Kiện còn không dám kiện nói gì đến xung đột vũ trang!

Do đó, nếu một ngày nào đó, dưới sự lãnh đạo "anh hùng" của đảng, khi hải quân của Tàu cộng bao vây khắp bờ biển Đông, bộ binh của Bắc Kinh vượt qua biên giới, thì nhân dân Việt Nam cũng đừng ngạc nhiên khi TBT đảng và CT nước của đảng lên TV tuyên bố: chúng ta nhất định không đánh vì đánh thì tất cả cùng thua. 

Do đó, hãy thua từ từ. Mất nước nhưng không thể mất đảng. Miễn sao Trần Đại Quang vẫn làm chủ tịch, dù là chủ tịch nước hay chủ tịch tỉnh Việt Nam. 

03.09.2016

Tập Cận Bình: Cần gì phải đánh chúng nó!

Vũ Đông Hà (Danlambao) - Tại sao phải đánh chúng khi hơn 700km2 vùng biên giới phía nam của ta đã được chúng dâng cho ta, một nửa Thác Bản Giốc đã được ta cắm cờ 5 sao, Ải Nam Quan đã trở thành Hữu Nghị Quan mà chúng vẫn cực kỳ coi trọng đại cục hữu nghị giữa hai đảng và nâng niu gìn giữ để trao lại cho những thế hệ mai sau của chúng. 

Súng đạn nào mãnh liệt bằng phong bì tống vào miệng chúng để sau đó Đại Hán ta ngồi ngay trên nóc nhà Tây Nguyên, đào mồ xới mã đất Mẹ của chúng, thải chất độc vào môi trường của chúng và Bộ chính trị của chúng vẫn khăng khăng đấy là chiến lược đã quyết, là chính sách công nghiệp hóa hiện đại đất nước không thể ngừng.

Xe tăng đại pháo nào bằng hàng ngàn công trình xây dựng để những sư đoàn Trung Hoa trong bộ áo công nhân có mặt trên xứ sở của chúng, kéo dài từ mũi Cà mau cho đến Hữu nghị quan.

Phi cơ, chiến hạm sao bằng 90% gói thầu của chúng ta đang khống chế nền kinh tế của chúng, hàng hóa thặng dư made in China đang ở trên thân thể chúng, bàn ăn của chúng, bao tử của chúng, nhà cầu của chúng. 

Vũ khí nào nguy hiểm và hiệu quả bằng hàng ngàn tấn thải hóa chất độc hại của chúng ta đang ngự trị trên đất liền, đang chực sẵn ngoài biển Đông mà chúng bỏ trống, đã đang và sẽ giết dần giết mòn hệ sinh thái và nhân dân của chúng.
Tại sao phải đánh chúng khi chỉ cần đóng đường biên giới là dân của chúng không đủ tiền mua quần áo mặc, thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng, xe dream và giấc mơ thấp hèn của chúng không còn chạy đầy đường, cắt xăng dầu là cả nước chúng tối đen và chỉ cần một cú nỗ là Tây Nguyên của chúng sẽ nhuộm bùn đỏ, một "sự cố cúp điện" là biển Đông, sông hồ của chúng sẽ cá chết hàng loạt bởi cyanide, phenol, mercury và nhiều thứ hóa chất pha trộn thêm bởi các nhà khoa học chuyên môn về vũ khí hóa học giết người hàng loạt của chúng ta.

Chúng ta không phải đánh, không phải bắn một viên đạn nào mà vẫn có thể làm sụp đổ thị trường chứng khoán của chúng, làm tan gia bại sản những tên đồng chí tư bản đỏ mà tài sản vốn liếng có được là nhờ vào và đang lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Hoa made in Vietnam. 

Tại sao chúng ta phải đánh!?

Cần gì phải đánh khi cả vùng biển mà chúng gọi là biển Đông đã, đang và sẽ là sân nhà của chúng ta; khi ngư dân của chúng hôm qua đi đánh cá trên vùng biển của tổ tiên chúng mà lấm lét như đi ăn trộm và hôm nay đã phải neo thuyền, bỏ biển vì chiến công Formosa của chúng ta; khi hải quân của chúng không dám lai vãng trong suốt thời gian giàn khoan khủng của ta chậm chậm tiến vào và khoan vào lòng biển của chúng nó; khi sự chống trả của chúng là những lời tuyên bố đã trở thành trò hề trên sân khấu ngoại giao; khi phản đối của chúng là những cú điện đàm với lãnh đạo ta bằng cái điện thoại không cắm dây; và chúng ta chỉ cần đuổi chúng ra khỏi nhà của chúng bằng vòi rồng phun nước. 

Cần gì phải đánh để chúng ta trở thành đạo quân xâm lăng và mang tiếng dưới mắt nhìn của thế giới, làm xấu đi hình ảnh yêu chuộng hòa bình của Đại Hán. Trong khi chúng ta đã từng bước trong hòa bình thành công thu tóm từng tấc đất, tất biển, từng vùng đất, vùng biển của chúng bằng văn kiện do chính chúng ký kết. Trong khi chúng ta vô cùng hiệu quả trong tiến trình biến chủ quyền của chúng thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của ta thì chúng chỉ dám vừa lên tiếng như chó sủa người qua đường, vừa cúi đầu cam kết tất cả vì đại cục Việt-Trung. 

Đó là đối với chúng ta. 

Còn đối với dân của chúng:

Cần gì phải đánh khi chúng thay thế ta ngăn chặn, trấn áp, bắt giam, bỏ tù dân của chúng đứng lên phản đối Đại Hán. Đánh chúng sẽ khơi dậy lòng yêu nước của dân tộc chúng vốn đã là sức mạnh vô biên từng đánh bại chúng ta hàng ngàn năm qua. Đảng của chúng đã tích cực giúp chúng ta tiêu diệt lòng yêu nước của dân tộc chúng trong suốt bao năm qua, đã biến đa phần dân của chúng thành những đàn cừu chỉ muốn sống trong hòa bình của một cuộc đời nô lệ. Chúng đang làm tốt!

Chưa bao giờ trong lịch sử bành trướng, chúng ta có được một đám thái thú địa phương làm tay sai đắc lực và hiệu quả như chúng. Khi chúng ta có mặt ở biển Đông ngay trước cửa nhà chúng, chúng đã ra lệnh hải quân của chúng không được bén mảng sợ làm phiền lòng ta. Khi cần đốt phá, cướp của, giết người để bôi đen những tên biểu tình yêu nước, công an mật vụ của chúng ngoan ngoãn nghe lời ta tạm lánh. Khi cần cấm ngặt từng tên yêu nước năng nỗ xuống đường phản đối chúng ta, chúng đã nhiệt tình như những con chó Tứ Xuyên quên ăn quên ngủ canh gác ngày đêm. Tại sao chúng ta phải đánh chúng và sau đó phải cai trị dân của chúng? Tại sao ta phải làm công việc đối phó với 90 triệu dân của chúng trong khi giống cẩu phương nam này làm giỏi hơn chúng ta? 

Chúng ta không cần đánh bởi chúng đã đánh dân của chúng thế chúng ta. 

Chúng ta cũng không cần phải cướp vì chúng đã tự cướp nước của chúng để dâng để bán và sẽ tiếp tục dâng, tiếp tục bán cho chúng ta. 

Khi cần chúng ta sẽ chuyển quân, kéo đại pháo, xe tăng chạy vòng quanh biên giới để giúp đảng của chúng nhân danh hòa bình, ngăn chặn hiểm họa chiến tranh mà trị đám dân muốn vọng động của chúng.

Chúng đã làm đúng bổn phận của một chư hầu trung thành với chính sách trị dân thuộc địa: hãy lo làm giàu và sống yên ổn. Dân của chúng chỉ được làm giàu và đó là phương thức duy nhất được cho phép để bảo vệ tổ quốc của chúng.

Không cần phải đánh. Cờ đại Hán của chúng ta sẽ từ 5 sao thành 6 sao phất phới trên toàn cõi lãnh thổ của chúng. Không bằng súng đạn mà sẽ bằng những văn kiện ký kết từng phần giao nhượng. Văn kiện sau cùng là văn kiện chúng ta viết sẵn cho chúng để chúng XIN ký kết được làm một vùng tự trị trong Đại hán vĩ đại của chúng ta.