Wednesday, January 31, 2018

4 nguy cơ đảng chết ngay đơ

Phạm Trần (Danlambao) - "Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tệ nạn xã hội vẫn còn có những diễn biến phức tạp." Đó là phát biểu của Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội Cựu chiến binh Việt Nam ngày 14-12-2017, tại Hà Nội.

Bối cảnh nguy cơ

Nhưng bốn (04) nguy cơ có từ bao giờ mà vẫn còn tồn tại? Đảng không nói mà ai cũng biết chúng bắt nguồn từ sau Hội nghị đảng VI thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh năm 1986 khi chủ trương “Đổi mới” và mở cửa làm kinh tế theo Tư bản Chủ nghĩa được áp dụng để cứu dân khỏi chết.

Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã buộc phải “đổi mới” sau 10 năm (1975-1985) sai lầm dẹp bỏ kinh tế tư nhân tự do ở miền Nam để làm theo mô hình kinh tế bao cấp, tập trung và lạc hậu của thời Liên Xô cũ được đem từ miền Bắc vào. 

Nhưng sau đó, khi Liên bang Xô viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu, nguồn viện trợ kinh tế và vũ khí cho miền Bắc CSVN trong thời chiến lần lượt tan vỡ (1989-1991) thì Việt Nam thời hậu chiến suy tàn, nội bộ phân hóa, đảng viên hoang mang tìm đường thoát ly.

Để tránh tình trạng “tả xung hữu đột” có nguy cơ vỡ đảng và mất quyền lãnh đạo, hai nước thù nghịch Việt Nam và Trung Hoa trong thời gian này, đã đồng ý gặp nhau để bình thường quan hệ ngoại giao, chấm dứt xung đột biên giới phía bắc (1979-1990). Đổi lại, Việt Nam phải rút quân để kết thúc cuộc chiến Kampuchea, do lực lượng Khmer đỏ Pol Pot chủ động và được Bắc Kinh hậu thuẫn (1975-1989), thường được gọi là cuộc chiến biên giới Tây-Nam.

Đó là lý do tại sao có Hội nghị được gọi là "thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc."

Thành phần tham dự hai bên:

- Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng,

- Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

Tại liệu BKTT kết luận: "Kết quả của hội nghị là một loạt các thay đổi trong đối nội và đối ngoại, không chỉ giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà còn giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước ASEAN."

Tuy nhiên cho đến nay, sau 28 năm (1990-2018), nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố. 

Nhiều giới Trí thức và cựu đảng viên lão thành đã công khai yêu cầu đảng bạch hoá hồ sơ Thành Đô, sau khi họ thấy đảng đã nhượng bộ Trung Hoa trong các:

Hiệp ước về Biên giới trên đất liền Việt - Trung ngày 30 tháng 12 năm 1999 (ký tại Hà Nội); 

Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ ngày 25 tháng 12 năm 2000 (ký tại Bắc Kinh);

Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ cũng được ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 (ký tại Bắc Kinh)

Ngoài ra đảng cũng giấu kín "Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ" với Trung Hoa.

Việt Nam cũng tỏ ra yếu đuối trước kế hoạch biến các bãi đá thành đảo quân sự của Trung Hoa ở hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa, và không dám phản ứng bằng hành động khi lính Tầu tấn công ngư dân Việt Nam đến đánh bắt hải sản ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngoài ra theo tiết lộ của nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì tại Thành Đô, phía Việt Nam phải chấp nhận đòi hỏi của Trung Hoa “không được nhắc đến cuộc chiền biên giới” (1979-1990)

Đó là lý do tại sao đảng CSVN đã không cho phép người dân và cựu chiến binh được tổ chức tưởng niệm những con dân Việt Nam, ước chừng 45 ngàn Quân và Dân đã hy sinh trong cuộc chiến Việt-Trung vào ngày 17 tháng Hai hàng năm.

Riêng về vụ Hoàng Sa, bị Trung Hoa chiếm từ tay quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974, thì chính Lãnh tụ Đặng Tiều Bình đã bác bỏ đề nghị hai bên cần thảo luận vấn đế chủ quyền do nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu ra tại cuộc gặp họ Đặng tại Bắc Kinh hồi tháng 9/1975.

Vì vậy mà từ đó đến nay, Trung Hoa đã coi thường Hà Nội để lập lại câu nói “không cần phải đặt ra” mỗi khi Việt Nam muốn nhắc đến Hoàng Sa.

Phía Việt Nam, tuy luôn miệng tuyên truyền “Việt Nam có đầy đủ bắng chứng lịch sử chứng minh chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, nhưng lại không dám cho dân kỷ niệm và ghi ơn 74 chiến sỹ quân đội Việt Nam Cộng hoà đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Tầu xâm lược Hòang Sa ngày 19/01/1974.

Không những thế, đảng và nhà nước CSVN còn nhu nhược và sợ mất lòng Trung Hoa nên đã ngăn cản và chống dân khi họ tự nguyện xuống đường tưởng niệm 64 chiến sỹ Quân đội Nhân dân đã hy sinh trong trận chiến chống Tầu ngày 14/03/1988 ở Trường Sa.

Vì vậy, với những gì xẩy ra từ sau Hội nghị Thành Đô, việc đảng quyết định tiếp tục giữ bí mật những thỏa hiệp với Trung Hoa đã khiến nhiều giới ở Việt Nam nghi ngờ về sự thành thật của ba Tổng Bí thư Đỗ Mười (Khoá đảng VII, từ ngày 28/06/ 1991 đến 26/12/1997);Lê Khả Phiêu (khoá đảng VIII, từ 26 tháng 12 năm 1997 – 22 tháng 4 năm 2001) và Nông Đức Mạnh (hai khoá đảng IX và X, từ 22/04/2001 đến 19/01/2011).

Các ông này, cùng với Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, cầm quyền từ khoá đảng XI (19 tháng 1 năm 2011- đến nay) đã nhượng bộ để Trung Hoa vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên và xây dựng nhiều dự án kinh tế bất lợi cho Việt Nam trên khắp lãnh thổ. Nghiêm trọng nhất là dự án nhà máy Thép Formosa Hà Tĩnh, tuy do Đài Loan đứng chủ đầu tư nhưng có Trung Hoa chống lưng và cung cấp hàng chục ngàn công nhân và nhá máy. Thảm họa ô nhiễm môi trường biển từ ngày 06/04/2016 của Formosa đã gây thiệt hại kinh tế lâu dài cho 4 Tỉnh miền Trung gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.

Người dân ở nhiều vùng bị ảnh hưởng đã đứng lên đòi tống cổ Formosa ra khỏi Việt Nam và đòi bồi thường lâu dài, nhưng nhà nước, vì mối lợi trước mắt và sợ phản ứng của Bắc Kinh đã làm ngơ.

Chồng chất lên nhau

Bên cạnh những hậu quả của quan hệ lép vế về chính trị, ngoại giao, quân sự và đặc biệt phải lệ thuộc kinh tế ngày càng sâu vào Trung Hoa với hậu quả chưa biết thế nào trong tương lai, đảng CSVN trong năm “bản lề” 2018, còn phải dốc tâm chuẩn bị Đại hội đảng XIII năm 2021 và tiếp tục phải đối phó với đe dọa tụt hậu hơn nữa về kinh tế, vì kinh tế của Việt Nam ngày nay là “nền kinh tế làm thuê cho nước ngoài”.

Trong khi đó thì tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, kẻ thù số một của đảng bây giờ, lại tăng nhanh trong nội bộ với số đông không còn tin vào đảng nữa và muốn từ bỏ Chủ nghĩa lạc hậu và giáo điều Cộng sản Mác-Lênin.

Nhưng những “chứng hư tật xấu” này của đảng viên không mới mà chúng có từ khoá đảng VII thời ông Đỗ Mười ngồi ghế Tổng Bí thư.

Bằng chứng là tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII tháng 4 năm 1994, Đảng đã xác định 4 nguy cơ đối với chế độ là: 

(1)“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; 

(2) Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; 

(3) Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; 

(4) Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”.

Biết như thế nhưng các khoá đảng sau, từ khoá VIII (Lê Khả Phiêu) đến hai khoá IX và X (Nông Đức Mạnh) và từ khoá XI đến nay (khoá XII) thời Nguyễn Phú Trọng, mọi chuyện vẫn trơ ra như đá.

Bằng chứng như Tài liệu của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã viết: "Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XII khẳng định lại với tinh thần đánh giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần còn nghiêm trọng hơn."

Như vậy thì có phải đảng viên đã nhờn lệnh đảng, hay cũng coi lãnh đạo là “cá đối bằng đầu” nên những chỉ thị, nghị quyết hay quyết định, dù có hàng hà sa số cũng không lọt lỗ tai đảng viên, hoặc chẳng ai thèm làm theo?

Vậy mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn như người mơ ngủ, chỉ biết hô hào làm lại những thứ đảng đã thất bại trong suốt 24 năm, từ 1994 tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đến giữa nhiệm kỳ khoá đảng XII năm 2018.

Ông Trọng hứa với báo đảng trong bài phỏng vấn nhân dịp Xuân Mậu Tuất 2018 cần: "Làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, chú trọng hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí những cán bộ thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết, thực sự vì Đảng, vì dân vào các vị trí lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước."

Khi nói về chống tham nhũng, Tổng Trọng lại than tại phiên họp thứ 13 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 22/01/2018: "Tuy nhiên, mặt hạn chế, khuyết điểm là: Việc xây dựng các văn bản hoàn thiện thể chế chưa đáp ứng kịp yêu cầu; việc kết luận thanh tra một số dự án còn chậm; việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn hình thức, hiệu quả thấp (như kê khai tài sản...); tình trạng "dưới lạnh" vẫn còn nhiều, khâu tự kiểm tra còn yếu. Sự phối hợp giữa một số cơ quan có lúc, có việc chưa tốt (để tội phạm trốn...)."

Ca xong, ông lại hứa sẽ: "Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc ("tham nhũng vặt"), kiên quyết loại khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước (nhất là trong cơ quan phòng, chống tham nhũng) những cán bộ hư hỏng, tham nhũng."

Nước chảy qua cầu

Nghe bác Trọng hát đi, hát lại mãi thì cũng thấy thương. Nhưng mọi người hãy bình tĩnh theo dõi tiến trình Xây dựng đảng từ khoá đảng VIII, sau khi không làm được những gì đảng nói từ tháng 4 năm 1994.

Hồi ấy, đảng thời ông Lê Khả Phiêu nói: "Tuy nhiên, trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ."

(Trích Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02/02/1999 Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCHTW Đảng (khoá VIII)

Sau đó, đảng khoá IX thời Nông Đức Mạnh lại than: "Tuy nhiên, sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn. Hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất đạo đức, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng có chiều hướng phát triển. Tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên sút kém. Tình trạng không coi trọng nguyên tắc đổi mới, dập khuôn mô hình nước ngoài, chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần... diễn ra ở nhiều lĩnh vực. Tệ mê tín có chiều hướng tăng lên.

- Nhìn chung, tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện nay là: mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nhân tố quan trọng tạo nên thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước; tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất nghiêm trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên quan đến sự mất còn của Đảng, của chế độ.

- Nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn; hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa sâu sắc, có mặt còn lệch lạc; phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng."

(Trích Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) 

Tiếp theo đến khoá đảng X (vẫn thời Nông Đức Mạnh), Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02/02/2008, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng viết: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Ðảng, tự phê bình và phê bình yếu. Tình thương yêu đồng chí bị giảm sút. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả."

Đến phiên Nguyễn Phú Trọng lên thay Nông Đức Mạnh để cầm quyền từ khóa XI, đảng lại bô bô cái mồm trong Nghị quyết Hội nghị lấn thứ tư ngày 16 tháng 01 năm 2012: "Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ."

Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây: 

"- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... 

- Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.

- Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân."

Tưởng đâu bấy nhiêu là quá đủ rồi, ai ngờ đến khoá đảng XII, ông Nguyễn Phú Trọng lại ban hành Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016, của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

Nghị quyết này nhìn nhận thất bại: "Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty."

Nghị quyết viết tiếp: "Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc."

Cuối cùng đảng cảnh giác cao độ: "Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ."

Bỏ cộng sản đi kiếm tiền

Nhưng ông Trọng và Ban Chấp hành Trung ương khoá XII không dừng ở đây mà đi vào sâu hơn để nhìn nhận nguy cơ đang đưa đảng đền miệng quan tài.

Nghị quyết 4/XII nêu ra những "Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị" của đảng viên là:

"1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.

3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.

5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.

7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.

8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.

9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích."

Từ 9 chứng bệnh này, đảng viên đã tự phát để "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ với những biểu hiện:

"1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".

2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.

6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.

7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.

8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước."

Tưởng chỉ có bấy nhiêu cũng đủ giúp đảng “chết ngay đơ” trước mắt dân, nào ngờ đảng viên còn bị ông Trọng phanh thây xé thịt cho bàn dân thiên hạ thấy hết những chứng hư, tật xấu như chưa bao giờ được thấy.

Đó là:

"1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".

5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội."

Với 27 biểu hiện đảng đang xuống dốc không phanh như thế mà ông Trọng vẫn tiếp tục hô hào “xây dựng đảng”, sau 24 năm chưa giải quyết được 4 nguy cơ.

Nhưng khi những nguy cơ này không những vẫn tồn tại mà còn sinh sôi nẩy nở như ong vỡ tổ thì ông lại báo cho dân biết: "Tình hình vi phạm kỷ luật của cán bộ, đảng viên còn diễn biến phức tạp, đáng báo động…. hiện tượng chạy chức, chạy quyền còn diễn biến tinh vi, phức tạp."

Để sau đó, ông nói với Hội nghị toàn quốc Ngành tổ chức xây dựng Đảng năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018, ngày 19/01/2018 tại Hà Nội: "Chúng ta phải có dũng khí, dám thẳng thắn bảo vệ cái đúng, kiên quyết can ngăn những việc làm sai, chống cho được tệ bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và cũng không để bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng. Kiên quyết chống tham nhũng trong công tác cán bộ."

Vậy đã có ai, hay viện nghiên cứu chính trị nào đánh giá việc làm của ông Trọng sau 7 năm cầm quyền chưa?

Tất nhiên chưa có vì Việt Nam không phải là nước có nền dân chủ pháp trị nên tiếng nói dân chủ không thể tồn tại trong chế độ Cộng sản độc tài.

Vì vậy, nhận xét của Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai trưởng của nguyên Tổng bí thư đảng Lê Duẩn, được trích lại dưới đây, thiết tưởng cũng đáng cho mọi người suy nghĩ.

Hỏi: "5 năm trước, TBT (ám chỉ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) nói rằng đang có sự sâu mọt, thoái hóa, làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng. Ngày hôm nay, khi theo dõi một cuộc chiến rất quyết liệt mà TBT là người khởi xướng và lãnh đạo để chống lại tham ô, tham nhũng và sự tha hóa trong Đảng, ông nghĩ gì về sự tồn vong của Đảng thời điểm này?"

TS LKT: "Thực ra trong lịch sử của mình, Đảng đã rất nhiều lần đứng trước sự tồn vong, có những lần, nguy cơ bị xóa Đảng đã hiển hiện khi hầu như toàn bộ Ủy viên TƯ bị bắt đi tù. Nhưng những lần đó là do yếu tố bên ngoài, còn đây là lần đầu tiên chúng ta đối diện với nguy cơ đe dọa sự tồn vong mà nguy cơ ấy do chính chúng ta tạo ra. Và nó nguy hiểm hơn nhiều.

Tôi cứ nghĩ đến Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu mà lo sợ. Vì chính họ chứ không phải các thế lực bên ngoài đã làm cho họ bị suy yếu rồi diệt vong. Đó là bài học đau đớn nhất, bài học mà nếu ai còn yêu Đảng thì phải suy nghĩ để chúng ta không bao giờ đi theo vết xe đổ ấy."

Hỏi: "Dù sao thì trong thời gian vừa rồi, tôi nghĩ mọi tầng lớp trong xã hội đều hồ hởi, phấn chấn khi nhiều người có vị trí cao trong xã hội bị xử lý cả về mặt chức vụ và pháp luật. Liệu chúng ta có đang vội vàng nếu đã cảm thấy hồ hởi và hi vọng vào những tín hiệu vừa qua?"

TS LKT: "Tôi chỉ cảm thấy bớt lo đi chứ chưa thấy hồ hởi. Bởi vì nếu hiện tượng này không bị chặn lại thì tôi hoàn toàn không hiểu xã hội sẽ đi đến đâu, khi mà dường như mọi thứ xung quanh mà tôi chứng kiến đều đang tồi tệ hơn bao giờ hết và làm cho cả Đảng lẫn dân tộc đều suy yếu.

Bên ngoài có một thế lực ngay gần ta đang trỗi dậy với biết bao toan tính không có lợi cho nước ta (ám chỉ Trung Quốc), thế mà trong lòng chúng ta dường như đang phân hóa, đang xuống cấp. 

Tôi lo lắng vì cái mà chúng ta luôn dùng để thắng kẻ thù bên ngoài như Nguyễn Trãi nói: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, thì trong lòng dân tộc ta bây giờ, cả đại nghĩa và chí nhân đều bị phân hóa ra.

Cứ nhìn cả hệ thống này, ta sẽ thấy là cái đại nghĩa của dân tộc không còn như vậy nữa, cái chí nhân của người Việt cũng không còn như vậy nữa. Nên khi những người đứng đầu nhìn thấy được sự việc và đứng lên để ngăn chặn những điều không có lợi cho dân tộc thì tôi thấy nỗi lo bớt đi.

Nhưng việc ngăn chặn đó để làm ra được cái mới tốt hơn thì lại chưa có. Nên tôi chưa dám hồ hởi."

(Theo Tô Lan Hương, báo Công an Nhân dân, mục An Ninh Cuối Tháng, ngày 29/01/2018)

Thái độ dè dặt của ông Lê Kiên Thành đối với việc làm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chẳng phải không có lý do, vì 4 tồn tại nêu ra từ 1994 thời Đỗ Mười khoá VII, vẫn vững như bàn thạch dưới thời Nguyễn Phú Trọng khóa XII.

Như vậy thì liệu đến bao giờ ông Lê Kiên Thành mới được “hồ hởi” để thỏa chí “một tấm lòng yêu Đảng” như lời ông nói, hay Đảng này sẽ chết ngay đơ trước mắt ông? -/-

(01/018)

Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu

Ông Bút (Danlambao) - Người mình xưa nay hâm mộ bóng đá, thấy đội nhà thua sẽ buồn, nếu thắng sẽ mừng vui. Tuy nhiên thể hiện niềm vui vừa qua, vượt mức bình thường, không khác gì bọn ngáo đá, đã bộc lộ bàn tay bí mật của đảng CS kích động, nhằm làm lu lấp nỗi nhục mất nước về quân Tàu, và có cơ hội cờ máu ngập tràn, trong niềm hân hoan chốc lát, người ta sẽ quên lá cờ của tỉnh Phúc Kiến, mà gọi là cờ "tổ quốc." Thật sự như vậy, cho dù đội nhà có vô địch Á Châu, nỗi mừng vui cũng không thể quá trớn như vừa rồi, nhất định đảng CS lồng vào làm cho sự kiện lồng lộn lên chất ngất.

Bóng đá, hay túc cầu, có lạ gì với người miền Nam, 60 năm trước đội tuyển VNCH từng vô địch Sea Games, từng lọt vào chung kết hai giải cup Á Châu đầu tiên, ngoài ra năm 1959 còn đoạt huy chương vàng tại SEAP Games (SEA games).

1966 vô địch giải bóng đá Merdeka lần thứ 10

(Kết quả: Hạ Tân Gia Ba 5-0, Nhật 3-0. Mã Lai Á 5-2, Đài Loan 6-1, thua Ân Độ 0-1)

Hai lần huy chương bạc 1967 và 1973

Hai lần huy chương đồng 1965 - 1971, cùng năm 1971 quân đội VNCH đoạt giải vô địch, tại Thái Lan.

Chừng đó thành tích vang lừng, lẽ ra đồng bào phải mừng vui tột đỉnh mới phải, nhất là thời kỳ bóng đá còn phôi thai, nhưng niềm vui được bày tỏ một cách tự nhiên, chừng mực, không quá lồng lộn vang trời như CS. Cùng thời điểm này bóng đá của CS miền Bắc ở trình độ nào? Nếu so với VNCH đội CS miền Bắc ngang với một đứa con nít.

Nhìn cách mừng vui do CS kích động, làm người ta nhớ lại thời thuộc địa, Lý Trưởng bắt dân phải đi xem bóng đá, mỗi làng phải đi mấy suất, người nào không muốn bị bắt đi xem, phải mang trầu, rượu, hoặc lễ vật tới bẩm, van nài cụ lý, có người phải trốn chui, trốn nhủi phải bị đòn roi...

Khi lạy lục, trốn tránh, khi mừng vui qúa độ, hai hình thức khác nhau hoàn toàn, nhưng có điểm hao hao man rợ là giống nhau!

Một trận bóng đá, dù vô địch, người mình vẫn có thái độ đúng mực, huống gì đang sống trong tủi nhục, đang cúi đầu, đang oằn mình dưới một tảng đá "vừa hồng" vừa ngu, vừa nặng, đè lên đầu lên cổ gần một thế kỷ nay. Thế giới chưa có một xứ sở nào phải câm nín, cho lãnh đạo muốn ăn bao nhiêu, thì ăn, muốn xử bao nhiêu, tùy hỷ vào "bác tổng." Nhà đang ở, đất ruộng đang canh tác, chúng chỉ hô "cưỡng chế", kể như trắng tay.

Nỗi nhục to lớn như núi non, trận đá bóng cỏn con, vui thế nào được.

Đất nước Việt Nam, của người Việt Nam, thế nhưng có một bọn "lãnh đạo đảng" qua Tàu, trong cái gọi là "Mật ước thành đô", coi như tiền đồ, giang sơn không còn nữa. Nỗi đau đớn, niềm tủi nhục bao trùm cả trời đất, trận đá banh sá gì mà vui, nhìn lại thân phận người Việt mình nên xóa chữ VUI ra khỏi tự điển. Trong tình cảnh đất nước hiện nay.

Thêm một chuyện qúa trớn.

Có một ông thầy giáo, dạy môn tiếng Anh, ông ta người Mỹ, tên là Daniel Hauer, thấy người ta vui quá cỡ, nên lên tiếng, đại khái: "Chỉ là trận đấu ở trung cấp thôi mà, có gì hớn hở quá đáng" ngoài ra ông Daniel Hauer có một so sánh chiến thắng ngang tầm Võ Nguyên Giáp, chi tiết, nguyên văn không được rõ, vì báo chí CS đăng lên nhưng xóa đoạn so sánh, nên người viết không biết chính xác. Mấy hôm nay ông bị bọn Dư Luận Viên ném đá, Công An mời lên làm việc, ông này bị quy tội: "Xúc phạm đến văn hóa, lịch sử Việt Nam" có nguy cơ bị trục xuất, dù Daniel Hauer xin lỗi liên tục, còn đòi đến nhà VNG để xin lỗi. Có thể ông này tưởng là mình "xúc phạm văn hóa lịch sử VN" khi nói tới VNG, thật ra dù ông so sánh hoặc châm biếm VNG cũng không hề liên quan gì tới "văn hóa lịch sử VN" 

Sự thật: Võ Nguyên Giáp, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Hồ Chí Minh... xuất phát từ sự dối trá, mị dân, nên muốn so sánh, muốn châm biếm thế nào cũng được, người dân càng khoái, tự ông không biết đó thôi, đại đa số người dân chơn chất biết ơn ông có một so sánh thông minh để CS tức giận.

Nghe nói ông có vợ Việt, chắc ông phải biết câu ca:

"Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em." 

Khắp chợ, khắp nẻo đường người ta hát rân trời, thế nào vợ ông cũng thuộc. Với CS xem VNG là anh hùng, nhưng với con mắt của người dân, hắn chỉ là thằng cai đẻ loại xoàng, nếu thật sự anh "hùng Điện Biên" dễ gì Lê Duẩn, Lê Đức Thọ dám đì hắn ta đi làm cai đẻ trơi đời thế gian, mong sao ông Daniel Hauer, đọc mấy lời này, để thảnh thơi ăn tết, ông không hề "xúc phạm văn hóa lịch sử Việt Nam." Trái lại cảm ơn ông có so sánh dí dỏm, thông minh, khiến bọn CS tức giận.

CS định đem cái vui của tụi ngáo đá, xức ra hải ngoại.

Bên Úc có một tên du học sinh, ăn mất gấu, đem mấy bịch cớ máu Phúc Kiến, ra tiệm café, định phát cho kiều bào tung hê mừng trận bóng, đồng hương biết được, họ liền vây tiệm café tịch thu được mấy bịch, họ vày dưới chân, tước ra làm muôn mảnh, vứt vào sọt rác.

Thời nô lệ, nhà cầm quyền Pháp, cũng bày lắm trò cho dân vui, cảm thán trước niềm đau này, cụ Nguyễn Khuyến có bài Hội Tây, với hai câu kết:

Khen ai khéo vẽ trò vui thế, 

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

Rất đúng với hoàn cảnh đất nước hiện nay, trong nhà có đại tang, người ta thường kiêng cữ tới những chỗ vui, như hý trường, dạ hội, phim ảnh... thật ra không kiêng cữ, cũng không còn lòng dạ nào tới những nơi này, chính báo CS đã đăng tải: "Báo thế giới sửng sờ với mức độ đón đội nhà quá sức hoành tráng." Chắc hẳn họ cũng ngạc nhiên với niềm vui "quá sức hoành tráng." 

Họ ngạc nhiên vì mình mất nước, mà không biết buồn. 

31/1/2018

Một giai thoại nhỏ, một bài học lớn

Từ Thức (Danlambao) - Văn phòng giám đốc đại học Harvard, một ngày cuối thế kỷ 19. Một cặp vợ chồng rụt rè xin gặp ông giám đốc. 

Cô thư ký nhìn vẻ quê mùa của hai người khách, chiếc quần sờn gấu của ông và bộ quần áo bình dân của bà, trả lời: ông giám đốc rất bận, chỉ tiếp khách có hẹn. Đúng ra, ông chỉ quen tiếp những trí thức danh tiếng, những người gia thế, có vai vế trong xã hội.

Hai người khách nhất định xin được ở lại chờ, vì có chuyện muốn nói. Xế chiều, ông giám đốc Harvard mới hết khách, xách cặp ra về. Cặp vợ chồng xin được thưa chuyện vài phút.

Ông bà cho hay người con trai duy nhất của họ, sinh viên năm đầu của trường, vừa chết vì bệnh thương hàn, và muốn dựng một cái gì để tưởng nhớ đứa con. 

Ông giám đốc thông cảm cái đau buồn của khách, nhưng trả lời: ông bà thử tưởng tượng, nếu mỗi gia đình có tang xây một mộ bia, bồn cỏ nhà trường sẽ thành một nghĩa trang.

Ông khách nói: chúng tôi không muốn xây mộ bia. Chúng tôi muốn nhân danh con, xây tặng một giảng đường, hay một nhà nội trú.

Ông giám đốc nhìn bộ quần áo bình dân, vẻ quê mùa của khách, mỉm cười: ông có biết xây một giảng đường tốn hàng trăm ngàn Mỹ kim?

Bà khách nhìn chồng, nhỏ nhẹ: Nếu chỉ có vậy, tại sao mình không dựng luôn một trường đại học?

Hai ông bà ra về. Ít lâu sau, trường đại học Stanford ra đời và trở thành một 3 đại học uy tín nhất thế giới. Ông giám đốc Harvard không biết mình vừa tiếp hai vợ chồng tỉ phú Stanford, vua xe lửa, sau này trở này trở thành Thống đốc California.

Trả lại cho xã hội

Giai thoại trên đây về Leland và Jane Stanford được kể đi kể lại, nói lên nhân sinh quan đặc biệt của người Tây Phương, nhất là ở những xứ ảnh hưởng văn hóa Tin Lành (1), với phương châm được dạy dỗ và thấm nhuần từ nhỏ: trả lại cho xã hội những gì đã nhận được của xã hội.

Khía cạnh văn hóa đó giải thích tại sao ở Hoa Kỳ và Bắc Âu có những nhà tỷ phú như Bill Gates, Warren Buffett, Zuckerberg dành những ngân khoản khổng lồ làm việc từ thiện, tài trợ những dự án có công ích, trong khi ở những xã hội khác, những người giầu có, nhất là mới giầu, chỉ biết khoe của, phung phí một cách lố bịch, nham nhở. 

Những ông bà hoàng dầu lửa, keo kiệt, tàn nhẫn với gia nhân, nhất là di dân lao động, không biết dùng tiền bạc làm gì hơn là phòng tắm, cầu tiêu bằng vàng, xây cất những trường đua ngựa vĩ đại với bồn cỏ xanh giữa sa mạc, ở một xứ Hồi giáo cấm cờ bạc, cấm đánh độ.

Những tỷ phú Tàu xây lại lâu đài Versailles hàng trăm phòng cho hai vợ chồng với một cậu cả. 

Những ông trời con, những cô bồ nhí của quan lớn ở Việt Nam làm thang máy bằng vàng, xây dinh thự xanh đỏ, Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu, lấy tiền gấp tàu giấy cho con thả chơi. 

Những nhà độc tài Phi châu dựng lại nhà thờ Vatican giữa một biển nghèo đói, dùng máy bay riêng chở thợ may, thợ đóng giầy nổi tiếng từ Paris, từ Rome (Roma) tới may bộ quần áo giá cắt cổ thứ 200, hay áo lông (fourrure) cho các mệnh phụ sống ở những xứ nóng như lửa.

Hai tư duy khác nhau, đưa tới hai xã hội khác nhau: một bên thịnh vượng, tiến bộ, một bên nghèo đói, lạc hậu.

Từ kinh doanh tới việc nghĩa

Những nhà triệu phú Mỹ, khi kinh doanh, không ngần ngại dùng bất cứ thủ đoạn nào để thành công, kể cả đánh gục đối thủ cạnh tranh, để chiếm độc quyền. Đó cũng là một khía cạnh của văn hóa Tin lành: không có mặc cảm với tiền bạc, với thương mại.

Đó là một yếu tố văn hoá, nhưng nó giải thích phần nào cho sự thành công kinh tế của những nước như Hoa Kỳ, Bắc Âu. Văn hoá Tin Lành đã tạo ra những xứ tư bản Tây Phương. 

Người Tin lành không che dấu chuyện đã làm ra tiền, coi đó là dấu hiệu của thành công. Gặp người Mỹ, vài giờ sau biết họ lãnh bao nhiêu dollars mỗi năm, có bao nhiêu cái nhà, cái xe

Văn hoá Thiên Chúa giáo có mặc cảm với tiền bạc. Không bao giờ người Pháp nói về lương bổng của mình, ít khi phô trương, gần như muốn che dấu nếu thành công trong đời.

Người Mỹ áp dụng những phương pháp hữu hiệu để kinh doanh, để làm giầu, nhưng khi đã thành công rồi, nghĩ tới việc trả lại cho xã hội những gì đã nhận của xã hội. 

Khi Bill Gates trình bày với vợ, con về dự án dùng trên 40 tỷ dollars cho Foudation Bill & Melinda Gates, và quyết định chỉ để lại cho mỗi người con 10 triệu (ít quá, khó thành công; nhiều quá, chỉ làm hư con cái), cả bà vợ và các con đều vui vẻ chấp nhận. Bởi vì họ được dạy dỗ, thấm nhuần văn hoá đó từ nhỏ. 

Khi Bill Gates nói về dự án của mình, Warren Buffet đã hưởng ứng ngay, đóng góp phần lớn gia sản kếch sù cho Foudation Gates. Trên 50 tỷ phú, đa số là người Mỹ, đứng đầu là Zuckerberg, đã noi gương Bill Gates

Các trường đại học Mỹ hay Anh đều giầu có, với những ngân sách khổng lồ, ngang với ngân sách một quốc gia nhỏ, mà nhà nước không tốn một xu, bởi vì những cựu sinh viên khi đã thành công ngoài đời đều quay lại, tự nguyện đóng góp. Đối với họ, đó là một chuyện tự nhiên, khỏi cần ai kêu gọi. Không làm, mới là chuyện bất bình thường. 

Đơn giản như vậy, nhưng đem áp dụng ở những nước khác, rất khó. Phải bắt đầu bằng sự thay đổi văn hóa, thay đổi tư duy. Và văn hoá, không phải chuyện một sớm một chiều. Đó là chuyện của hàng thế hệ.

Tinh thần "trả lại cho xã hội" giải thích tại sao vai trò của xã hội dân sự cực kỳ quan trọng trong các xã hội Tây Phương. Nó nhân bản hóa các xã hội tư bản. 

Ở Hoa Kỳ chẳng hạn, tiêu biểu cho chế độ tư bản, nó xoa dịu những bất công của một xã hội cạnh tranh, mạnh được yếu thua. Đó là hai khuôn mặt mâu thuẫn của tư bản Tây Phương. Mâu thuẫn hay bổ túc lẫn nhau.

Những foundations tư nhân, nhan nhản khắp nơi, với những số tiền nhận được ở khắp nơi gởi giúp, trợ cấp học bổng, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, phát triển nghệ thuật văn hoá, giúp đỡ người nghèo, người sa cơ lỡ vận. 

Truyền thống bác ái

Tại Pháp, nơi người Tin Lành chỉ chiếm trên dưới 3 %, cái tinh thần "trả lại cho xã hội" không mạnh như ở Hoa Kỳ hay các nước có văn hoá Tin Lành ở Bắc Âu. Những trường đại học lớn, uy tín nhất của Pháp, những năm gần đây kêu gọi các cựu sinh viên đã thành đạt đóng góp cho trường, nhưng kết quả rất khiêm nhượng. 

Không phải một sớm một chiều người ta có thể tạo một truyền thống. 

Mặc dầu vậy, tinh thần bác ái ăn sâu tại các nước Thiên Chúa giáo như Pháp, Ý, Tây Ban Nha (Espagne, Spain) đã thúc đẩy các xã hội dân sự hoạt động tích cực. 

Tại Pháp chẳng hạn, tổ chức Resto du Cœur mỗi năm tặng thực phẩm, bữa ăn cho hàng triệu người. Emmaüs, một tổ chức thiện nguyện do linh mục Pierre lập ra không những giúp đỡ người nghèo, còn tạo công ăn việc làm cho hàng trăm người. Một trong những hoạt động của Emmaüs: nhận bàn ghế, TV, tủ lạnh, computers, quần áo cũ của thiên hạ gởi tặng, sửa lại, bán rẻ lấy tiền làm việc nghĩa. Nhân viên của Emmaüs đều là những người gọi là SDF (Sans Domicile Fixe, Không nhà không cửa, homeless), theo nguyên tắc dạy người ta câu cá hơn là cho tiền mua cá. Những người điều hành là những người có dư khả năng làm lương lớn trong các hãng tư, nhưng muốn làm việc công ích để đóng góp cho xã hội.

Từ gia đình tới xã hội

Người Tây Phương, có tinh thần cá nhân chủ nghĩa, nhưng không ích kỷ như chúng ta nghĩ. 

Rất nhiều người tích cực và nghĩ đến người khác, coi việc giúp đỡ người khác, cải thiện xã hội là một bổn phận. 

Người Việt hy sinh, nghĩ tới người khác nhiều hơn chính mình, nhưng "người khác" chỉ luẩn quẩn trong nhà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, không ra khỏi ngưỡng cửa gia đình. Gia đình VN chặt chẽ, nhưng xã hội VN lỏng lẻo. Gia đình Tây Phương lỏng lẻo, nhưng xã hội của người ta chặt chẽ. Chữ liên đới, bác ái, huynh đệ không phải là những danh từ trống rỗng trên cửa miệng

Người Việt dành trọng tâm đời mình cho gia đình. Tai họa xẩy ra cho người thân làm tiêu tan luôn đời mình. Mất một người thân, cuộc đời kể như chấm dứt. Ngồi rầu rĩ thương thân, oán phận

Thái độ của người Tây Phương tích cực hơn. Họ nghĩ tới xã hội. Họ không bi quan yếm thế. Tại họa cá nhân không đánh gục họ, trái lại, trở thành một động lực khiến họ lao đầu vào việc cải tiến xã hội. 

"Our children"

Hai ông bà Stanford, khi cậu con cưng chết, quyết định: từ nay, tất cả những đứa con California sẽ là con mình. "The children of California shall be our children".

Ở Pháp, những bà mẹ có con thơ ấu chết vì tai nạn xe hơi, thay vì ngồi than trời oán đất, hay oán thù người gây tai nạn, đã thành lập một hội rất thế lực, Ligue Contre La Violence Routière (Hội chống lại bạo lực lưu thông) hoạt động tích cực đòi quốc hội, chính phủ ban hành những luật lệ hạn chế vận tốc, kiểm soát, trừng phạt những người lái xe sau khi uống rượu, hút cần sa ma túy, mở những lớp về an ninh lưu thông, hỗ trợ các gia đình nạn nhân. 

Các nạn nhân khủng bố lập những hội tương trợ các nạn nhân như mình. Một phụ nữ Pháp, thoát chết trong cuộc khủng bố Hồi giáo ở Paris, nói: chưa bao giờ tôi hạnh phúc hơn, vì có một gia đình trên 200 người. 

Có người trong gia đình chết vì ung thư, họ lập những hội giúp bệnh nhân ung thư. 

Những người cựu SDF, khi có công ăn việc làm, mở hội giúp những người vô gia cư. 

Người có con chết vì ma túy, gia đình tan nát vì rượu chè, bỏ tiền bạc, giúp những người nghiện ngập. Họ làm việc đó tận tụy, âm thầm, coi như chuyện đương nhiên, ngạc nhiên khi có người ngạc nhiên trước các nghĩa cử đáng khâm phục đó

Những thí dụ đó nhan nhản, ở mỗi góc phố, đếm không xuể. 

Thí dụ điển hình nhất là tổ chức Téléthon. Một số gia đình có con bị các thứ bịnh hiếm, không có thuốc điều trị vì không có hãng bào chế thuốc nào bỏ ra những ngân khoản khổng lồ để tìm kiếm, sản xuất thuốc cho một số rất ít bệnh nhân, đã thành lập Téléthon, mỗi năm vận động quyên góp được hàng trăm triệu euros. Với số tiền đang kể đó, họ lập tuyển dụng các y sĩ, các chuyên viên y khoa nổi danh, mở những laboratoires tối tân để nghiên cứu phương pháp chữa trị, tìm tòi thuốc men. Tiền đóng góp từ khắp nơi gởi về, thường thường là của những người lợi tức thấp, nhưng sẵn sàng giúp người thiếu may mắn hơn mình. Và những người hoạt động tích cực nhất là những người có con cái đã chết vì bạo bệnh, hoạt động để tránh cho người khác thảm kịch của chính mình.

Không quay đầu về quá khứ, tiến về phía trước, nghĩ đến việc cải thiện xã hội, đó là những yếu tố khiến xã hội Tây phương thành công. Cả về kinh tế lẫn chính trị. Bởi vì dân chủ không phải chỉ xây dựng trên giấy tờ, qua hiến pháp, bầu cử, luật lệ. Nó phải được thực thi, bảo vệ, nuôi dưỡng bởi xã hội dân sự.

Cha chung không ai khóc

Người VN hy sinh cho gia đình, đó là một đức tính đáng cảm phục. Đó là một điều may, khiến xã hội VN không hoàn toàn băng hoại. Hay xã hội đã băng hoại, nhưng vẫn còn những ốc đảo là hàng triệu gia đình, đang âm thầm cố thủ.

Người Việt hết lòng với gia đình, nhưng hoàn toàn thờ ơ với xã hội. 

Phương châm của người Việt: vườn ai nấy rào. Người ta đốn cây, tôi mặc kệ, vì là cây ngoài đường. Người ta xẻ núi, phá rừng, xây chung cư, khách sạn, tôi ngoảnh mặt đi để tránh vạ lây. Hậu quả là VN được trời cho một giang sơn gấm vóc, ngày nay bị tàn phá một cách thô bạo. Nha Trang, Đà Lạt, Sapa…, những thắng cảnh tuyệt vời đang trở thành những đống xi măng, cốt sắt thô kệch, trước sự thờ ơ của mọi người. Cha chung không ai khóc.

Tại các nước Tây phương, các di tích lịch sử được bảo trì một phần lớn nhờ các foundations, các tư nhân. Ở VN, ngược lại, người ta biến của công thành của riêng, không nương tay tàn phá di sản của đất nước để làm giầu, để trục lợi.

Khi nào tình thương, sự liên đới, lòng bác ái, tinh thần trách nhiệm của người Việt ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, lúc đó VN sẽ có một xã hội lành mạnh, lạc quan, tích cực. Đủ lành mạnh, lạc quan, tích cực, để xây dựng một chế độ dân chủ đích thực. Để xây dựng lại đất nước đang băng hoại.

(1) Bài này không có dụng ý ca ngợi đạo Tin Lành. Tôn giáo nào cũng có ưu và khuyết điểm, sẽ đề cập trong một bài tới

(Paris, tháng 1/2018)