Wednesday, February 1, 2017

Phóng Viên Không Biên giới lên án CSVN bắt giữ các blogger và nhà báo công dân

Phóng Viên Không Biên giới lên án CSVN bắt giữ các blogger và nhà báo công dân
Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) vừa lên án những vụ bắt bớ kiểu “phòng ngừa” đối với ba blogger và nhà báo công dân ở Việt Nam. Các vụ bắt bớ này diễn ra trước thềm năm mới âm lịch, và sau những vụ sách nhiễu kéo dài của nhà cầm quyền cộng sản đối với các blogger và gia đình họ.
Trong một thông cáo đưa ra hôm 31 tháng 1, tổ chức có trụ sở tại Paris, Pháp, kêu gọi nhà cầm quyền CSVN trả tự do ngay lập tức và hủy bỏ mọi cáo buộc đối với họ. Thông cáo của Phóng Viên Không Biên Giới nêu trường hợp của nhà tranh đấu Trần Thị Nga, tức blogger Thúy Nga, cũng như hai nhà báo công dân Nguyễn Văn Oai và Nguyễn Văn Hóa.
Ông Benjamin Ismael, người đứng đầu văn phòng Châu Á – Thái Bình Dương của Phóng Viên Không Biên Giới, nêu rõ rằng các blogger và nhà báo công dân này đã không làm gì hơn là tường thuật các cuộc biểu tình, và bày tỏ quan điểm của mình trước những vụ vi phạm quyền của các công dân khác. Ông Ismael cho rằng thật kinh khủng khi thấy việc bảo vệ quyền lợi chung và nhân quyền bị đóng dấu ấn “tuyên truyền chống nhà nước” ở Việt Nam. Phóng Viên Không Biên Giới yêu cầu cộng đồng quốc tế cùng lên tiếng đòi trả tự do lập tức cho những người bị bắt.
Việt Nam hiện đứng thứ 175 trong 180 quốc gia, tức gần chót bảng sắp hạng Chỉ Số Tự Do Báo Chí Thế Giới năm 2016 của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới.
Huy Lam / SBTN

Giới siêu giàu ngày càng đông – nợ công Việt Nam ngày càng lớn

Giới siêu giàu ngày càng đông – nợ công Việt Nam ngày càng lớn
Ảnh: doisongphapluat.com
Tạp chí VietNamNet Bridge- ấn bản tiếng Anh của báo mạng VietNamNet trong nước- hôm 1 tháng 2 ghi nhận hiện tượng tăng vọt về số người thuộc giới siêu giàu ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bài báo chỉ ra rằng nhiều đại gia trong số này đã không làm giàu nhờ sản xuất và kinh doanh hợp pháp, mà dựa trên tham nhũng, trốn thuế và những hoạt động bất hợp pháp. Và trên hết, họ không làm lợi gì cho quốc gia.
VietNamNet Bridge trích dẫn các con số của tổ chức Oxfam cho hay, thu nhập của nhóm 210 người siêu giàu ở Việt Nam đủ để giúp 3.2 triệu người nghèo. Báo cáo Wealth Report 2016 cho thấy trong năm 2015, Việt Nam có 168 người siêu giàu có tài sản từ 30 triệu Mỹ kim trở lên. Giới siêu giàu ở Việt Nam được dự báo là sẽ tăng 140%, lên tới hơn 400 người trong thập niên tới.
Ông Phạm Tất Thắng, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Bộ Công Thương Cộng Sản Việt Nam, nói rằng ở Việt Nam có ba nhóm siêu giàu. Nhóm đầu tiên làm giàu nhờ khối tài sản trên thị trường chứng khoán. Nhóm thứ hai làm giàu nhờ địa ốc. Và nhóm thứ ba trục lợi từ tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam và những nước khác. Ông Thắng ghi nhận không có nhiều người giàu lên nhờ sản xuất hàng hóa có phẩm chất cao, qua đó tạo thêm việc làm, đóng góp vào GDP hoặc tham gia vào phát triển bền vững. Nhà nghiên cứu này cũng ghi nhận mối quan hệ giữa sự tăng vọt về số người siêu giàu của Việt Nam, với sự tăng trưởng GDP chậm lại và sự gia tăng nợ công. Điều này chứng tỏ sự giàu lên của đa số “đại gia” lại làm nghèo đi đất nước. Do đó, không có chuyện “dân giàu thì nước mạnh” như tại các quốc gia phát triển khác.
Huy Lam / SBTN

Donald Trump và bệnh vĩ cuồng của một số người

Thạch Đạt Lang (Danlambao) - Cuối tuần vừa qua, ngày 27.01.2017, tân tổng thống Mỹ Donald Trump đã ra sắc lệnh cấm nhập cảnh tất cả người Hồi giáo từ 7 nước Syria, Soudan, Somali, Iran, Iraq, Jemen, Libya, đã gây ra những xáo trộn lớn cho tình hình chính trị nước Mỹ.

Đạo diễn Edward Zwick khi quay cuốn phim The Siege năm 1998 với các tài tử Denzel Washington, Bruce Willis, Annette Bening… chắc không bao giờ tiên đoán được tình trạng tương tự, tuy chưa căng thẳng, khốc liệt như được mô tả trong phim, nhưng đã nói lên tâm trạng bất ổn, lo lắng của người Hồi giáo hiện nay trên nước Mỹ.

Nhiều cuộc biểu tình nổ ra ngay tại các sân bay, nơi hàng trăm người thuộc 7 nước nói trên bị giữ lại tại sân bay, chờ trục xuất, cho dù họ có visa nhập cảnh hoặc thẻ thường trú (green card) của Mỹ.

Không bàn đến việc sắc lệnh của ông Trump gây ra sự phản đối, biểu tình khắp nơi, từ các tỉ phú, chủ tịch hội đồng quản trị các tổ hợp lớn nhất nước Mỹ như Mark Zuckerberg, Bill Gates, Warren Buffet, đến việc một chánh án liên bang ở New York, bà Ann Donnelley đã chận sắc luật này lại. Bài viết này chỉ nói đến thái độ vĩ cuồng của một số người Việt hải ngoại đối với ông Donald Trump.

Thái độ vĩ cuồng vì Donald Trump chẳng có gì khó hiểu, những người này hy vọng Trump sẽ tấn công quân sự hoặc trừng phạt kinh tế Trung Cộng, từ đó sẽ dẫn đến chiến tranh Trung - Mỹ hoặc Trung Cộng sẽ kiệt quệ vì kinh tế bị bao vây hay vì chạy đua vũ trang với Mỹ. Khi cộng sản Trung Hoa sụp đổ thì Việt cộng cũng (đương nhiên) chết theo. Họ tin tưởng vào những lời nói, những chính sách đối ngoại cứng rắn mà nội các Trump sẽ thi hành.

Từ niềm tin đó, bất cứ một lời nói, một bài viết của truyền thông, báo chí bất kể là Mỹ hay Việt chỉ trích, phê bình sự mâu thuẫn giữa lời nói, việc làm, những mờ ám trong việc kinh doanh, vi phạm hiến pháp của Donald Trump với những bằng chứng rõ ràng, cũng đều bị ném đá, chụp mũ tới tấp, bị cho là của đảng Dân Chủ, cay cú vì thua trong bầu cử, hay là của truyền thông cánh tả, của Trung Cộng, Việt Cộng… cố tình dèm xiểm hạ uy tín của Donald Trump, tìm cách bài bác, thậm chí là phá hoại, ngăn trở các kế hoạch, sắc lệnh của ông Trump. Có người ở Little Sài Gòn còn kêu gọi thành lập ủy ban yểm trợ Donald Trump (Vietnamese Committee to Support Donald Trump).

Những fan Việt cuồng Trump bịt mắt, bịt tai để khỏi thấy cách hành xử bất chấp nguyên tắc, đạo đức, vi phạm hiến pháp, khẩu chiến với truyền thông, báo chí như một bà già mất gà, cũng như không cần đếm xỉa gì đến những cuộc biểu tình chống đối Trump đã và đang diễn ra trên khắp nước Mỹ chỉ một ngày sau khi ông ta nhậm chức. Họ không thấy rằng làn sóng chống đối Trump càng ngày càng lan rộng khắp nơi, từ thương gia đến chính trị gia, từ tỉ phú, chủ tịch các tập đoàn lớn nhất nhì nước Mỹ đến các thượng nghị sĩ của cả 2 đảng Cộng Hòa lẫn Dân Chủ, chánh án, tổng biện lý….

Được biết, hàng trăm luật sư Mỹ lo về di trú tự nguyện không nhận thù lao, đến các phi trường, đề nghị đại diện cho những người Hồi giáo, tranh đấu cho quyền nhập cảnh của họ. Không biết có luật sư VN nào tình nguyện đi làm chuyện này không nhỉ? Có thể có ở đâu đó, nhưng không thấy báo chí đưa tin.

Lệnh cấm người Hồi giáo nhập cảnh vào Mỹ cũng khiến nhiều người nhớ đến chuyện tổng thống Franklin D Roosevelt giam lỏng tất cả người Nhật vào các trại tập trung trong thời thế chiến thứ hai. Những người này chỉ được thả ra sau khi chiến tranh chấm dứt.

Vậy giả sử rằng, nếu chiến tranh Mỹ - Trung bùng nổ, Việt Cộng ngã theo Trung Cộng và Việt Nam trở thành quốc gia thù địch với Mỹ, liệu người Việt Nam ở Mỹ có bị giam lỏng, bị đưa vào các trại tập trung không? Ai dám bảo đảm rằng viễn ảnh này sẽ không thể xẩy ra vì đại đa số người Việt Hải ngoại đã có quốc tịch và nguồn gốc tị nạn CS? Đừng quên rằng trong số hơn 140.000 người Nhật bị tập trung trong thế chiến thứ II, có những người thuộc thế hệ thứ 2-3 sinh đẻ ở Mỹ.

Đã có nguồn tin nói rằng sắc lệnh cấm người Hồi giáo ở 7 nước kể trên nhập cảnh vào Mỹ có thể mở rộng sang nhiều nước khác. Chương trình ESTA (Electronic System for Travel Authorization) tức nhập cảnh vào Mỹ không cần Visa, dành cho công dân các nước Liên Âu như Pháp, Đức, Ý, Anh, Hy Lạp… có thể sẽ bị hủy bỏ. Thay vào đó, người dân các nước này sẽ phải làm đơn xin Visa như trước.

Tin mới nhất về sắc luật cấm người Hồi giáo vào Mỹ cho biết, ông Trump vừa cách chức quyền Bộ trưởng Tư pháp (Attorney General) là bà Sally Yates vào tối thứ hai 30.01.2017. Ký giả Anthony Zurcher của đài BBC đã đưa tin vụ cách chức này, gọi đó là Thảm sát tối thứ hai với một dấu hỏi. Chuyện này khiến nhiều người dân Mỹ nhớ lại việc tổng thống Richard Nixon phải từ chức trong vụ bê bối Watergate. Ngày 20.10.1973, chỉ trong một đêm Nixon cách chức bộ trưởng tư pháp William Ruckelshaus sau khi vừa bổ nhiệm ông này chỉ vì Ruckelshaus từ chối không thi hành lệnh của Nixon, trước đó người tiền nhiệm của Ruckelshaus cũng từ chức, phản đối lệnh của Nixon là phải sa thải ủy viên đặc nhiệm, GS Archibald Cox. Nhưng chỉ ít tháng sau, Nixon phải từ chức để khỏi bị truất phế nhục nhã.

Nhận định về chuyện này, một người bạn của tôi nói rằng, rất thích ông Donald Trump vì đây là một tổng thống dám nói, dám làm, không xìu xìu, ển ển như Barack Obama, luôn hành động dứt khoát, không làm theo lệnh là sa thải ngay, tổng tư lệnh quân đội thì phải như thế mới xứng đáng. Tôi nhắc nhở anh bạn rằng, trong thời chiến thì tổng thống Mỹ đúng là tổng tư lệnh quân đội, nhưng trong thời bình thì không, nước Mỹ không phải là một trại lính, hơn nữa, 340 triệu người dân Mỹ không phải là lính,

Anh bạn tôi dường như cũng không biết gì về Nixon và vụ Watergate. Bạn ơi! Hãy coi phim The Siege để nhìn lại thân phận của mình.


Dịp Tết, dịp chết

Tháng Chín (Danlambao) - Ấy chớ, chớ hiểu lầm tôi đang nói đến sự kiện đảng ta giết hàng ngàn người dân vô tội vào đúng tết Mậu Thân 1968 đấy nhé. Phải giải thích ngay kẻo lại mang tội tuyên truyền chống nhà nước, khơi gợi hận thù hay lật đổ chính quyền gì gì đó, thì sợ lắm. Lỗi tại cái thằng dân, ngày thường chết chưa đủ lại tranh thủ chết ngày Tết.

Ngày thường thì chết vì tai nạn, bệnh tật, vì ngộ độc thực phẩm, chết hoặc ngắc ngoải vì ô nhiễm môi trường, chết trong các nhà tù, các đồn công an, rồi chết vì giết nhau, vân vân. Tóm lại, trên thế giới có bao nhiêu kiểu chết thì dân Việt ta gom đủ cả, thậm chí còn sáng tạo ra nhiều kiểu chết ly kỳ khiến thiên hạ há mồm lác mắt và kinh ngạc. Tỉ như một anh thanh niên 29 tuổi ở Bình Định mới chết cách đây chừng một tháng đấy. Công an bảo là anh ấy chết vì chạy quá sức. Kể cũng phục, sức thanh niên, chạy có ba bước chân, chưa đầy trăm mét mà chết được, quá “giỏi”.

Giờ vẫn nói chuyện chết, nhưng vòng quanh cái Tết cho nó có tính thời sự.

“Theo báo cáo của Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an), trong 5 ngày từ 26-1 đến 30-1 (tức từ ngày 29 đến mùng 3 Tết) toàn quốc xảy ra 192 vụ tai nạn giao thông, làm chết 118 người, bị thương 197 người”.

Xin thưa, với một hệ thống cầm quyền lấy sự dối trá làm căn bản thì mọi con số thống kê đều không đáng tin cậy. Có nghĩa là chúng ta được quyền tin rằng số người tử vong vì tai nạn giao thông mấy ngày Tết còn cao hơn. Và năm nào cũng thế, sẽ kéo dài nhiều năm sau nếu mọi thứ không được cải thiện. 

Nguyên nhân chết vẫn luôn được xác định là “tại dân, do dân và vì dân”. Tại người dân mua nhiều xe máy, ô tô. Tại người dân xây nhiều nhà cao tầng, chung cư trong đô thị. Tại người dân uống bia rượu nhiều, không chịu ở nhà còn đổ ra đường đi chơi xuân. Tại người dân thiếu ý thức khi tham gia giao thông... Rồi cả tại số nữa. Số chết thì phải chết thôi, kêu ai.

Chỉ cần nêu một vấn đề cụ thể là tai nạn giao thông trong các ngày Tết, cũng thấy được một góc của “thiên đường xã hội chủ nghĩa”. 

Không chiến tranh, nhiều người vẫn bị giết hàng ngày.

Không đánh bom khủng bố, nhiều người vẫn bị giết hàng ngày.

Ngày Tết lẽ ra là để vui, để xum vầy, nhưng đối với nhiều người, nhiều gia đình, Tết là đau thương, tang tóc. Nói không ngoa, mỗi dịp Tết, người chết lại gia tăng.


Tự siết chặt vòng kim cô!!!

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận - Bốn ngày, 10 cuộc gặp với hầu hết quan chức Ban Thường ủy đảng Tàu cộng, 15 văn bản ký kết, 1 Thông cáo chung trong chuyến Hoa du chầu Tập đầu năm 2017, đó là thành tích mới nhất của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Một động thái ngoại giao tự tiện, bất cần ý kiến đóng góp, lời lẽ can ngăn của đông đảo đảng viên cao cấp, hàng trăm trí thức nhân sĩ, hàng ngàn công dân thiện chí trong các tổ chức dân sự và các trang blogs tự do. Một thành tích đáng ghi vào những trang sử đen của nước Việt cũng như khắc trên bia miệng dân Lạc Hồng ngàn năm.

Giờ phút này đây, trong không khí xuân Đinh Dậu, bên cạnh món quà vòng kim cô “16 chữ vàng”, “4 chữ tốt” nhận từ lâu từ các kẻ tiền nhiệm, nay Tổng Lú đang vui mừng mân mê món quà mới được Đại đồng chí Bắc Kinh ban cho. Đó là “3 chữ đồng” lẫn “1 chữ nhất”: "đồng cảm, đồng thuận, đồng tâm" và “nhất quán”. Một sợi xích đồng khó đứt thắt chặt tình nghĩa cộng sản anh em, ràng buộc lòng trung của nô với chủ, để tên đầy tớ ở Ba Đình không được nhị tâm, bất thuận.

Bất thuận, nhị tâm sao được vì chữ ký còn sờ sờ trên 15 văn kiện. Những văn kiện gắn bó nhiều mặt nhất, sâu đậm nhất giữa 2 đảng, 2 nhà nước cộng sản từ trước đến nay. Ta hãy điểm qua và sơ xét các văn kiện này để thấy được sự ràng buộc có lẽ chưa từng có trong thế giới cộng sản và trong nền ngoại giao khắp thế giới. 

- Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa đảng CS Việt Nam và đảng CS Trung Quốc. Nghe thì có vẻ bình đẳng nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có chuyện "hợp tác" song phương, đào tạo qua lại, mà chỉ có chuyện thầy Bắc Kinh dạy trò Hà Nội, nặn ra một đám "thái thú bản xứ" làm tay sai cho thiên triều, để từ việc hán hóa cán bộ Ba Đình sang hán hóa đất nước VN.

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Kinh tế Trung ương với Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện TQ. Điều này có nghĩa là mọi hoạch định kinh tế mà VC áp đặt lên đất nước sẽ phải hoàn toàn đi theo và là một phần của toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế của Tàu cộng, đúng thực chất “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nghĩa là vì quyền lợi 2 đảng.

- Biên bản ghi nhớ giữa Ngân hàng Đầu tư phát triển VN và Ngân hàng Phát triển TQ về việc hợp tác tài trợ dự án và cho vay song phương trung, dài hạn giai đoạn 2017-2019. Trước tình trạng nợ công sắp đến hồi bục vỡ, “tài khóa quốc gia có nguy cơ đổ sụp” (lời của Thủ tướng Phúc), Việt cộng đành phải sống bám và sống nhờ vào tiền của Tàu cộng. Như thế càng lệ thuộc hơn.

- Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng VN và Bộ Quốc phòng TQ đến năm 2025. Quốc phòng bao giờ cũng là vấn đề mang tính độc lập nhất, thế nhưng trong bối cảnh Tàu đang dần xâm chiếm Việt từ hải đảo vào đất liền, thì văn kiện "hợp tác" quốc phòng này cho thấy Trọng đã thay mặt toàn thể quân đội ký bản đầu hàng Bắc Kinh.

- Hiệp định khung hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền giữa Bộ Quốc phòng VN và Tổng cục Hải quan TQ. Từ bao năm qua, nhiều vùng đất biên giới Việt-Trung đã bị Bắc Kinh chiếm hay Hà Nội dâng. Nay việc hợp tác cửa khẩu là sự tái công nhận những vùng đất của VN đã bị lọt vào tay Tàu cộng là của Tàu cộng, theo các thỏa thuận dâng quốc thổ của đám lãnh đạo Ba Đình.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương VN và Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch quốc gia TQ về việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật thương mại. Điều này có nghĩa mức độ an toàn của mọi sản phẩm Tàu (đa phần độc hại và giả dổm) nhập vào VN sẽ không được kiểm soát bởi VN là quốc gia tiêu thụ. Nhân dân tiếp tục lãnh đủ.

- Thỏa thuận hợp tác thả giống nuôi trồng nguồn lợi thủy sinh khu vực Vịnh Bắc Bộ Việt Nam-Trung Quốc. Bao năm qua, ngư dân Việt điêu đứng nghề nghiệp và bấp bênh sinh mạng vì “Tàu lạ”, thế mà nay Nguyễn Phú Trọng vẫn cam kết để Trung cộng làm chủ, khai thác, hiện diện và hoạt động trên toàn Vịnh Bắc Bộ dưới danh nghĩa "thả giống nuôi trồng nguồn lợi thủy sinh".

- Kế hoạch hợp tác Du lịch Việt-Trung giai đoạn 2017-2019. Kế hoạch này là một ý đồ chính trị, tạo điều kiện vừa cho hàng vạn du khách Tàu "đổ bộ" VN (rồi âm thầm ở lại thực hiện việc đồng hóa mai sau) vừa cho các hướng dẫn viên Tàu trình bày lịch sử, tên gọi... của các danh lam thắng cảnh VN theo kiểu "gốc gác Tàu” đúng hướng “xâm lược mềm" của Trung Nam Hải.

- Thỏa thuận hợp tác giữa Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (Sự Thật) và Nhà xuất bản Nhân dân TQ giai đoạn 2017-2021. Rồi đây dân Việt sẽ sẽ bị tiêm nhiễm những điều lếu láo, dối trá và xuyên tạc của Tàu cộng. Toàn bộ diễn giải về chính trị và lịch sử sẽ được Nhà xuất bản của Hà Nội trình bày theo ý hướng của Tàu cộng như là “sự thật” cho nhân dân VN. Sự nô lệ nào bằng!

- Bản ghi nhớ về việc hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề “Sức lôi cuốn của Việt Nam - Sức lôi cuốn của Trung Quốc” giữa Đài Truyền hình VN và Đài Truyền hình Trung ương TQ cũng như Thỏa thuận hợp tác giữa Đài Tiếng nói VN và Đài Phát thanh quốc tế TQ càng gia tăng hơn sự khống chế về tư tưởng và sự thần phục về tâm tình cho một dân tộc luôn mang máu kháng Tàu.

- Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2017-2021 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc. Đây là việc mở rộng sự thần phục của đảng con đối với đảng cha, của đảng nô đối với đảng chủ ra đến toàn thể nhân dân, để một ngày nào đó người Việt thấy mình thành dân Tàu mà chẳng thắc mắc, y như con ếch bị luộc chín từ từ.

- Công thư trao đổi về việc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Trong bối cảnh thần phục Tàu, quy hoạch đường sắt LC-HN-HP vốn nằm trong đất Việt rõ ràng sẽ do Tàu làm chủ, với bao vấn đề kỹ thuật và tài chánh như nhiều dự án khác. Ngoải ra, thiết lộ nối từ biên giới núi về biên giới biền này chẳng hàm chứa nguy cơ quốc phòng sao?

Bên cạnh đó, 2 ký kết mang tính nhân đạo: Bản ghi nhớ hợp tác giữa Trung ương Hội Chữ thập đỏ VN và Trung ương Hội Chữ thập đỏ TQ cũng như Bản ghi nhớ về hợp tác triển khai viện trợ không hoàn lại chuyên về lĩnh vực y tế công cộng giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN với Bộ Thương mại TQ phải chăng cho phép Bắc Kinh có mặt, kiểm soát và "giải quyết" những đại nạn về y tế, môi trường xảy ra ở mức vĩ mô mà nguyên nhân chính là các nhà máy công nghiệp xây dựng bởi Tàu cộng khắp cả nước, những sản phẩm tiêu dùng sản xuất bởi Tàu cộng ngập mọi nơi.

Tóm lại, các văn kiện ấy nêu lên việc giúp nhau đào tạo cán bộ cấp cao, cùng nhau nghiên cứu lý luận chính trị, hợp tác trong an ninh biên giới, an ninh quốc phòng, quan hệ ngoại giao, đầu tư công nghiệp, giao thông vận tải, khai thác khoáng sản, giao dịch thương mại, ngân hàng tín dụng, xuất nhập hàng hóa, an toàn thực phẩm, truyền thanh truyền hình, xuất bản và du lịch... Nghĩa là một sự hợp tác, đúng ra là lệ thuộc toàn diện, tự siết chặt vòng kim cô từ phía VN!

Sở dĩ Nguyễn Phú Trọng đã tức tốc sang Bắc Kinh và giao hẳn Việt Nam vào tay Trung Quốc bằng 15 văn kiện ký kết trước sự chứng kiến của Thành Cát Tư Hãn hiện đại là Tập Cận Bình, đó là vì tân tổng thống Donald Trump của Hoa Kỳ đang dần dần hé lộ chính sách thân Nga chống Tàu, đảng lẫn các quan chức Việt cộng thấy trước viễn ảnh hết làm giàu vì TPP bị khai tử, và đám tham quan bạo ngược đang lo sợ cảnh bị Hoa Kỳ và các nước dân chủ trừng phạt qua đạo luật nhân quyền Magnitsky mới ban hành và những đạo luật tương tự sẽ được thông qua.

Để dọn đường cho hành động thần phục ngày càng toàn diện đó cũng như để chứng minh cho thái độ lệ thuộc ngày càng sâu đậm đó, nhà cầm quyền Hà Nội một đàng đã tỏ ra hết sức vô trách nhiệm (trước mắt dân Việt, nhưng rất trách nhiệm trước mắt đảng Tàu) trong việc giải quyết thảm họa ô nhiễm môi trường biển từ Vũng Áng do công ty Formosa gây ra dưới sự điều khiển của tập đoàn Luyện kim Trung Quốc. Cho tới nay, mặc cho biển Việt dẫy chết, đất Việt kêu trời, dân Việt ngất ngư, đám lãnh đạo Ba Đình vẫn quyết tâm không động tới sợi lông chân của thủ phạm chính đã nhận lệnh từ Trung Nam Hải để đầu độc giang sơn Việt và dòng giống Việt. Đàng khác, những tổ chức lẫn công dân từ lâu chống Tàu và nay càng chống Tàu quyết liệt hơn thì đã bị đàn áp tàn khốc. Từ những cuộc biểu tình phản đối Formosa năm rồi đến cuộc tưởng niệm Tử sĩ Hoàng Sa mới đây, từ những công dân và giáo xứ xuống đường đòi công lý cho bản thân và môi trường đến những chiến sĩ dân chủ, nhà báo độc lập. Họ hoặc là bị sách nhiễu, hăm dọa, bị vu khống, thóa mạ hoặc là bị bắt bớ, giam cầm. Chấn động công luận gần đây nhất là các cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, là các anh Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Hóa… Những hành động thất nhân tâm và phản chính trị này đều xoay quanh chuyến đi Bắc Kinh của Nguyễn Phú Trọng.

Giữa lúc đó, đứng trước mối nguy kép ngày càng lớn dần đến từ phương Bắc (một đàng Tàu cộng hung hãn xâm chiếm trọn vẹn Biển Đông và quyết tâm thôn tính đất Việt theo não trạng Đại Hán muôn thuở, với một kế hoạch tuần tự nhi tiến khởi thảo từ thời Mao Hồ; đàng khác Trung Quốc nay gặp khó khăn chia rẽ trong nội bộ đảng, gặp khủng hoảng nguy cơ là kinh tế mất đà, đồng nguyên sụt giá, nợ nần chồng chất, dự trữ ngoại tệ ngày một vơi đi, môi trường sinh sống càng lúc càng ô nhiễm, các dân tộc thuộc trị không ngừng nổi dậy; bên cạnh đó, Đài Loan tỏ ra cứng cỏi tự tin, có mòi đòi độc lập, Hồng Kông cũng ra mặt thách thức và muốn thoát khỏi sự chi phối từ Bắc Kinh), đứng trước mối nguy kép đó, ý kiến chung của số công dân yêu nước, sáng suốt và dũng cảm là: lúc này hơn lúc nào hết, lãnh đạo đảng và nhà nước phải công khai hóa nội dung mật nghị Thành Đô, dứt khoát từ bỏ sợi dây trói buộc "16 chữ vàng", "4 chữ tốt", “3 chữ đồng” đầy lường gạt, xem xét lại cụ thể các mối quan hệ, các dự án kinh tế, công nghiệp, xây dựng, thương mãi với Tàu cộng, loại bỏ mọi ký kết bất bình đẳng, có thiệt hại lớn cho phía Việt Nam, xem xét số người Hoa trên đất nước trả về những ai không đủ giấy tờ hợp lệ.

Nhưng với não trạng cuồng tín về ý thức hệ, với xích xiềng ràng buộc về chính trị, kinh tế, tài chánh, với hứa hẹn bảo vệ về quyền lực, đảng Việt cộng khó mà chuyển mình. Thành thử toàn dân phải ra tay. Cụ thể nhất và hữu hiệu nhất là xuống đường liên tục, đông đảo và rộng khắp, để dồn đảng Việt cộng vào chân tường. Cứ noi gương quần chúng bên Đông Âu và Trung Đông để may ra giải quyết các vấn đề của đất nước.

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 260 (01-02-2017)

Ban biên tập

Có nên gộp hai Tết tây Ta vào làm một

Bùi Quang Vơm (Danlambao) - Nhân dịp Tết Đinh Dậu, câu chuyện gộp hay không gộp cả hai loại Tết Dương và Âm vào làm một, lại được xới trở lại, nhưng có lẽ, rồi cũng lại như mọi năm, sẽ chẳng có một quyết định nào được đưa ra.

Nhưng, cái gì buộc phải đến, nó tất đến. Việc nhanh hay chậm phản ánh trình độ nhận thức chung không phải chỉ của quần chúng mà trước hết là của nhà cầm quyền. Trong một chế độ mà bộ máy quyền lực tập trung trong tay đảng cộng sản, chính sách và luật pháp đều từ ý chí và bàn tay của đảng mà ra. Sở dĩ chuyện tranh luận nên hay không nên này kéo dài nhiều năm nay, là một khẳng định não trạng và trình độ tư duy của những cái đầu lãnh đạo của đảng. Những con người này, phần đông và phần chủ chốt có xuất phát sâu thẳm từ nền văn hoá làng quê. Xét một cách biện chứng theo lý thuyết của Mác, thì việc đòi hỏi những con người này một lọai tư duy cất cánh khác, có thể cũng là việc khó, giống như việc đòi ông Lê Duẩn phải hiểu về chủ nghĩa Tư bản hay đòi ông Nguyễn Phú Trọng giải thích về Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vậy.

Người ta đưa ra lý do văn hoá, nét đặc trưng hàng nghìn năm. Bỏ Tết cổ truyền là bỏ di sản văn hoá, là bỏ truyền thống và những giá trị ngàn năm v.v... Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh, các hủ tục, các thứ truyền thống hủ bại, cũng có tuổi hàng nghìn năm, nhưng sau khi bãi bỏ, hoặc thay bằng một hình thức khác, chỉ sau một thời gian, nếu cái thay đổi đó phù hợp với cuộc sống, tạo ra những tác động tích cực, không có ai tìm cách quay lại. Đảng cộng sản sẵn sàng tiêu huỷ những gì văn minh nhưng có hại cho chủ trương độc đảng cầm quyền của họ, và bỏ mặc, thậm chí còn nuôi dưỡng những hủ tục nếu những hủ tục đó đồng loã với họ che đậy sự lưà bịp và che chắn bảo vệ chế độ. Hai mươi ngày nghỉ một năm vào những ngày khởi đầu của một chu trình sản xuất kinh doanh mới, gay gắt cạnh tranh, là một việc cần tránh, nhưng những ngày nghỉ này có thể lôi con người ra khỏi những quan tâm chính trị, bỏ qua những tội ác của chính quyền, mà những kẻ lãnh đạo chóp bu cần và muốn che đậy, giấu diếm.

Mọi thứ bắt đầu từ nền sản xuất nông nghiệp và canh tác lúa nước.

Tất cả những thói quen, những tập quán hình thành và tồn tại hàng ngàn năm trong xã hội Việt Nam để được gọi là nét riêng văn hoá, thực ra không phải là cái gì đặc trưng, hay sản phẩm đặc biệt gắn với đặc tính riêng của con người Việt Nam, mà chỉ là kết quả của sự gắn kết cuộc sống con người với điều kiện đời sống canh tác nông nghiệp. Nếu có thể nói qúa một chút thì bản chất các tập quán này phản ánh sự trói buộc của số phận hàng ngàn đời của con người Việt vào sinh mệnh của cây lúa, cũng là sự trói buộc của số phận con người vào tính bất thường của giông bão, nắng mưa, vào sự giận giữ quở phạt của Thượng đế. Sự may mắn, yên bình, thuận mưa vưà nắng phụ thuộc vào sự quy phục của con người trước một thế lực quyền năng vô hình.

"Trông trời trông đất trông mây
trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
trông cho chân cứng đá mềm, 
trời êm bể lặng mới yên tấm lòng"

"Mười chín tháng chín không mưa,
thì con bán cả cày bưà đi buôn."

Tết Ta là ngày cuối của năm Âm lịch, tức là lịch tính theo vòng quay một năm của mặt trăng, gọi là lịch của nông dân, lịch thời tiết gắn với chế độ canh tác nông nghiệp và chủ yếu là canh tác lúa nước. Thực tế, các quy luật về thời tiêt́, như mưa gió, lụt bão hay khô hạn gắn với chu kỳ quay vòng của mặt trời rõ rệt và tác động mạnh hơn nhiều. Chuyển động của mặt trăng chỉ ảnh hưởng tới mức lên xuống của thuỷ triều hàng tháng, ảnh hưởng không nhiều tới vòng sinh trưởng kéo dài thông thường từ 5 đến 6 tháng của cây lúa và thường chỉ vào sâu hạ lưu của các con sông chừng 50-60 km. Những quy luật thời tiết có thể quy chuyển về dương lịch tương ứng và thực tế người nông dân đã quen với cách tính theo lịch dương từ hàng trăm năm, đặc biệt từ sau khi chiụ sự bảo hộ của thực dân Pháp, khi mọi hoạt động xã hội được chính quyền ấn định theo Dương lịch.

Đương nhiên, nếu vòng quay của mặt trăng kết thúc vào đúng dịp người nông dân đang phải bận bịu với công việc đồng áng, không thể rời ra được, thì ngày kết thúc vòng quay đó không thể trở thành ngày Tết. Ngày Tết chính là ngày nông nhàn, chỉ một năm một lần. Vụ chiêm của đồng bằng bắc bộ từ xa xưa bắt đầu gieo mạ từ tháng 10, bắt đầu cấy từ cuối tháng 11 và cấy xong vào dịp cuối năm. Đó là thời kỳ kéo dài 25-30 ngày, buộc phải chờ cho cây lúa bén rễ, đẻ nhánh, để cào cỏ và bón thúc cho cây luá chuẩn bị làm đòng. Đây là thời gian ngoài đồng không có việc gì làm. "Tháng giêng là tháng ăn chơi". Vụ lúa mùa, là vụ lúa quan trọng nhất đối với nhà nông, mới gặt xong tháng 10. Thóc mới, gạo mới, sau một năm khó nhọc, vất vả, giữa một dịp nông nhàn kéo dài cả tháng, người đi cấy thuê xa có dịp về nhà, hàng xóm làng nước có dịp thăm hỏi lễ lạt, chúc tụng nhau. Hàng nghìn năm như vậy, thói quen và tập quán trở thành một phần của cuộc sống. Những sinh họat văn hoá, tinh thần phát sinh, phát triển từ những ngày nghỉ này dần biến thành tài sản cộng đồng và trở thành văn hoá dân tộc.

Sản phẩm văn hoá ra đời từ các phong tục tập quán. Các phong tục tập quán xuất hiện, hình thành và phát triển trên nền mối quan hệ sản xuất quan trọng nhất với đời sống cộng đồng. Một cách biện chứng, có thể thấy, khi quan hệ sản xuất của nền sản xuất chi phối xã hội thay đổi, thói quen sinh hoạt xã hội có thể thay đổi, từ đó văn hoá xã hội thay đổi theo.

Bản chất Nông nghiệp đã thay đổi.

1- Theo báo cáo của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các giống lúa nhân tạo đã khắc phục nhiều chênh lệch phụ thuộc vào thời tiết và việc canh tác các giống lúa này không buộc phải nghỉ nghỉ vào cuối hay đầu năm.

Vụ Đông-Xuân: 

- Sớm: Mạ 25-30/12, Cấy 5-10/2, Thu hoạch 20-25/5

- Chính vụ: Mạ 5-20/1, Cấy 20-25/2 Thu hoạch 1-15/6

- Muộn: Mạ 25/1-5/2 Cấy 25/2-05/3 Thu hoạch 25-30/6

Công việc gieo mạ cho vụ Đông-Xuân cả ba loại giống lúa kéo dài suốt từ 25/12 cho đến 5/2, vắt qua dịp Tết Ta thường rơi vào khoảng giữa tháng Một và giữa tháng Hai. Vì vậy với cơ cấu canh tác các giống lúa mới, những ngày cuối năm không còn là những ngày nông nhàn. Việc nghỉ làm nông vào những ngày này đã trở nên gượng ép. Tháng giêng đã không còn là "tháng ăn chơi" như cách đây vài chục năm.

2- Cùng với vịêc thâm canh nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật, năng suất sản lượng không ngừng tăng, trong khi diện tích canh tác nhiều năm nay chậm lại và tỷ lệ giữa mở rộng diện canh tác với hiệu quả đầu tư tiến dần tới giới hạn, dẫn đến tất yếu dư thừa lao động nông nghiệp. Năng suất bình quân đầu người trong khu vực nông nghiệp vẫn còn rất thấp, phản ánh tình trạng lao động nhàn rỗi, không tạo ra sản phẩm, kích thích luồng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị. Hiện nay, năng suất lao động nông nghiệp chỉ bằng một phần năm so với khu vực công nghiệp, cũng có nghĩa một phần rằng, lao động của khu vực nông nghiệp đang vượt quá nhu cầu ít nhất hai lần. Một nửa số lao động thường xuyên tại khu vực nông nghiệp có thể và cần phải được di chuyển ra khu vực công nghiệp và dịch vụ xã hội.

3- Tỷ trọng đóng góp của sản xuất nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia giảm dần tất yếu, nhường chỗ cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Ở Việt Nam hiện nay (2016), khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 16,32%, trong đó riêng nông nghiệp chỉ chiếm không đến 10%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,72%; khu vực dịch vụ chiếm 40,92%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,04% (Cơ cấu tương ứng của năm 2015 là: 17,00%; 33,25%; 39,73%; 10,02%). Trong vòng 10 năm nữa, sản lượng do Dịch vụ đem lại có thể lên trên 60%, sản lượng công nghiệp chiếm giữ khoảng ̃32-35% , ngành nông nghiệp sẽ chỉ còn đóng góp 5-8%.

4- Dân số Việt Nam năm 2014 tại khu vực nông thôn 66,9%= 60.693,50 triệu người, thành thị 33.1 %; = 30.035.40 triệu người. Trong khoảng 10 năm nữa, với tốc độ đô thị hoá tăng dần từ 3,4% năm 2012 tới 8.2% cuối năm 2024, dân số nông thôn sẽ chỉ còn khoảng 37.8 triệu, chiếm khoảng 38% dân số cả nước.

5- Trong khoảng 10 năm nữa, trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm 92-95%, sản xuất nông nghiệp có thể chỉ còn tư ̀5-7%. Hiện nay, ở các nước phát triển, công nghiệp dịch vụ đem lại một đóng góp bình quân khoảng 70-80% (Mỹ 78%, Pháp 79 % PIB, trong khi nông nghiệp chỉ chiếm 1.45% PIB (Mỹ 2014) Pháp 1.68 % (2014).

6- Như vậy, trong khoảng 10 năm nữa, 90-95% các hoạt động kinh tế sẽ nằm ngoài khu vực nông nghiệp và cùng với nó sinh hoạt xã hội với sự cuốn hút tập trung của trên 62% dân số sẽ diễn ra tại khu vực đô thị và công nghiệp. Cùng với nó, các tập quán, các thói quen khác với truyền thống sẽ được xác lập và khẳng định. Các sản phẩm văn hoá tinh thần khác về bản chất vơí các sản phẩm có từ hàng ngàn năm trước sẽ có ảnh hưởng bao trùm. Đó chính là nền văn hoá hiện đại, phát triển căn cứ chủ yếu trên các tác phong sinh hoạt công nghiệp, chắc chắn có sự tiếp tục, kế thưà nhưng sẽ khác về bản chất với nền văn minh lúa nước.

7- Những níu kéo quá khứ là thuộc tính con người có tính quy luật, nó là một sản phẩm tự nhiên của tâm lý và tình cảm con người trước mọi sự thay đổi, nhưng chính bản tính này là nguyên nhân của những chướng ngại gây cản trở tiến trình của tiến bộ. Những quán tính của tác phong nông dân, những thói quen cũ hình thành từ môi trường lao động thiếu kỷ luật và áp lực năng suất là tất cả những nguyên nhân tạo ra sự thấp kém của năng lực cạnh tranh quốc tế của sản phẩm hàng hóa do lao động Việt Nam sản xuất. Tết âm lịch là một sự níu kéo của những toa tàu ì ạch, già cỗi. Giống như những bước chân lỗi nhịp trong hàng ngũ diễu hành của đội quân toàn cầu.

Nhập Gia tuỳ tục. 

Những thay đổi hợp quy luật là những thay đổi có tính cách mạng, thúc đẩy sự thay đổi đúng hướng là tiết kiệm cho lịch sử.

Nếu không thể đảo ngược hay trì hoãn một chu trình, thì giải pháp đúng đắn nhất là tháo gỡ moị vướng mắc, tạo các điều kiện để nó xuất hiện sớm nhất có thể.

Xu thế hội nhập toàn diện và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới là một đòi hỏi chính đáng, hợp nhu cầu khách quan nhưng cũng hợp với nguyện vọng và tình cảm của người dân Việt Nam. Hoà nhập vào môi trường chung, tham dự sân chơi chung, đương nhiên là Việt Nam phải chấp nhận luật chơi chung, thừa nhận chuẩn mực những khái niệm và những quy ước phổ cập toàn cầu. Trong những cái phổ cập đó, có quy tắc quy ước mọi sinh hoạt theo dương lịch. Và ngày kết thúc của một năm là ngày kết thúc một chu trình sản xuất kinh doanh, là ngày tịnh kho, ngày khoá sổ kế toán, là một ngày thống nhất để đồng nhất mọi quy chiếu.

Việc tổ chức nghỉ làm việc khoảng 9 ngày từ 28 tháng chạp cho đến 6 tháng giêng năm mới là một việc làm không hợp với tinh thần hiện đại của kinh tế thị trường. Việc nghỉ quá dài gây ra hai hệ luỵ quan trọng. Một là người lao động khi ra khỏi guồng máy sản xuất quá lâu, quán tính làm việc biến mất và quán tính nghỉ ngơi hình thành. Đây là điều tối kỵ trong quản lý sản xuất. Trước khi nghỉ, tâm lý chuẩn bị cho chuyến nghỉ dài đã thực chất làm cho kỷ luật sản xuất rệu rã, năng suất lao động sụt giảm. Hai là, sau kỳ nghỉ, kỷ luật lao động và năng suất lao động rất khó khôi phục nhiều ngày sau đó. Có thể thiệt hại gây ra cho sản xuất ít nhất là hai tháng trên một năm. Chỉ riêng nguyên nhân này, năng suất giảm 17%, có nghĩa là giá sản phẩm tăng 17%, khả năng cạnh tranh giảm 17%. Để có thể cạnh tranh quốc tế, ít nhất cũng phải có được những điều kiện tự nhiên có của các nền kinh tế khác. Không cho phép tự huỷ hoại bằng chính những điều kiện tự mình chối bỏ. Nhập gia tuỳ tục. Hội nhập và hoà nhập chính là làm những gì mọi người làm, có những gì mọi người có.

Không có gì thay đổi ngoài dịch chuyển ngày lễ.

Kể từ năm 1873 Nhật Bản theo lịch Gregorian và năm mới là ngày đầu tiên của tháng giêng dương lịch. Nhưng những gì người Nhật Bản làm trong dịp tết nguyên đán trước đó, họ vẫn giữ nguyên và vẫn làm. Chỉ có ngày lễ là dịch chuyển về ngày cuối của năm Dương lịch, trùng với năm dương lịch áp dụng toàn cầu.Và một đất nước nghèo tài nguyên khoáng sản đã trở thành một cường quốc, nhiều thập niên nền kinh tế thư hai thế giới, một xã hội dân chủ hiện đại, một đất nước có nền khoa học hàng đầu thế giới. Nhưng một Nhật Bản không thể lẫn với những đặc trưng văn hoá riêng biệt và đặc sắc.

Dân tộc Nhật, nền văn minh Nhật có chiều dài và bề dày có thể còn hơn nền văn minh Việt Nam. Những truyền thống, những tập quán văn hoá chắc chắn có những phẩm chất bền vững có thể còn hơn Việt Nam, nhưng Hoàng đế Nhật, những tinh hoa trí tuệ của dân tộc Nhật Bản đã có quyết định như vậy từ cách đây hai trăm năm. Và người Nhật không bị Tây hoá, người Nhật không bị ngoại lai. Quốc tịch Nhật còn là niềm kiêu hãnh của nhiều công dân có nguồn gốc Tây Âu.

Có thể mất đi cái gì, nếu vào ngày nghỉ Tết Dương lịch, người Việt giữ nguyên những "thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh". Tất cả những gì đang có, đang làm cho ngày Tết Âm lịch, nếu chỉ di chuyển thời điểm, về trùng với ngày Tết dương lịch, gộp hai ngày tết vào làm một, thì có thể mất gì?

31/01/2017

Hoà hợp hoà giải: Viên thuốc độc bọc đường

Trần Thảo (Danlambao) - Mới đây tôi đọc bài viết của nhà báo Bùi Tín, tựa đề Món nợ hoà hợp hoà giải đăng trên trang blog của VOA tiếng Việt. Bài viết đề cập tới tổ chức Nhịp cầu Hoàng Sa, mà theo lời của ông Bùi Tín, mục đích của nó là thực hiện lý tưởng hoà hợp hoà giải mà đảng CSVN đã quỵt dân tộc hơn 40 năm qua. 

Cá nhân tôi không có gì phản đối với thiện chí của tổ chức này, vì đứng ở vị trí của một người Việt Nam trước tình trạng đất nước tan hoang về mọi mặt như hiện nay, việc hàn gắn những vết thương tâm lý, nối kết những tấm lòng, tạo dựng niềm tin, niềm hy vọng cho dân tộc về một tương lai tươi sáng, theo tôi, ai cũng có ước mơ như thế.

Thế nên tiêu đề mà tôi chọn cho bài viết này không nhằm vào tổ chức Nhịp cầu Hoàng Sa.

Chỉ là trước khi đi vào chủ đề, tôi cũng có đôi lời nhận xét, dĩ nhiên là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi về tổ chức NCHS.


Theo tôi, tầm vóc của tổ chức NCHS chỉ ở mức của một tổ chức từ thiện. Những người có liên hệ trong cuộc chiến trước đây ở hai bên, tìm đến nhau, đóng góp công sức và tài chánh để giúp đỡ những cảnh đời khó khăn, của những thương binh một thời góp xương máu, không kể là bộ đội miền bắc hay chiến binh VNCH. Và chỉ có thế!

Trong những cuốn sách và bài viết mà ông Bùi Tín từng phổ biến trước đây, người đọc thấy ông nêu lên vấn đề chế độ CSVN thay vì hàn gắn vết thương chiến tranh, hài hoà dân tộc, lại đem mấy trăm ngàn quân cán chính VNCH bỏ vào ngục tối được mệnh danh là trại cải tạo, đày đọa họ, tra tấn họ, gây ra biết bao thảm cảnh xã hội, gia đình tan nát, vợ xa chồng, con xa cha v.v... Ông Bùi Tín đã từng phán xét việc chế độ CSVN cố tình khoét sâu vết thương chiến tranh, tạo thêm hận thù dân tộc, và ông tỏ ý thiên về giải pháp hòa giải, hòa hợp dân tộc.

Có phải vì ông Bùi Tín luôn ước mơ như thế, nên khi thấy tổ chức NCHS, với những hoạt động có tính cách từ thiện, đã quá phấn khích mà nâng tổ chức NCHS lên tầm của một tổ chức mang màu sắc chính trị với cái mục tiêu mà nhìn vào, ai cũng thấy là nó quá tải, không cách gì làm được, đó là Hoà hợp hoà giải Dân tộc.

Đó là tôi chưa nói tới vấn đề là việc hòa hợp hòa giải giữa hai lực lương cán binh cộng sản và chiến binh VNCH chưa bao giờ được đặt ra! Lý do tại sao?

Quân đội VNCH và quân đội miền bắc VN, hai bản chất khác nhau. Phần lớn những người thanh niên miền nam VN, họ đi vào quân đội một cách tự nguyện để làm bổn phận người trai thời loạn, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền tự do non trẻ của đồng bào trước tham vọng xâm lăng của miền bắc. Dĩ nhiên cũng có những trường hợp không tự nguyện, lọt vào hoàn cảnh gọi là "bị bắt lính". Nhưng họ, những chiến binh VNCH không bao giờ bị tuyên truyền, nhồi sọ về những gì không thật để đẩy họ vào vùng chết, hy sinh cho những tham vọng tồi bại của nhà cầm quyền. Quân đội miền bắc VN chính là hoàn toàn ngược lại. Họ, những thanh niên nam nữ, có khi chỉ mới 11,12 tuổi đã bị nhà nước miền bắc VN vét hết để cung cấp cho chiến trường miền nam, với những lời tuyên truyền láo khoét về hoàn cảnh sống của nhân dân miền nam. Nào là "Chế độ Ngô Đình Diệm lê máy chém khắp miền nam, nào là Thiệu Kỳ làm tay sai đế quốc Mỹ, đàn áp bóc lột nhân dân ta v.v..." Tất cả những lời xảo trá, cộng thêm những cổ động, khích lệ màu mè đó đã đẩy những bầu máu nóng của thanh niên miền bắc đi vào lò sát sinh của hỏa lực chiến tranh.

Đọc bài thơ của người cán binh CS đã hy sinh trên đường vào nam, được giấu tận đáy ba lô:

Chiều Trường Sơn núi rừng hiu quạnh
Mẹ hiền ơi, con chợt nhớ quê mình
Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xinh
Con bướm nhỏ, mái đình xưa, nhớ quá!

Có ai trong chúng ta không cảm thấy niềm thương cảm cho số phận nhỏ nhoi của một người thanh niên miền bắc, nghe lời xúi bậy của bác đảng, dấn thân vào con đường máu xương vô định?

Việc những cán binh "trẻ thơ" bị xua ra chiến trường lửa đạn để thực hiện tham vọng xâm lăng miền nam của bác và đảng, việc những cán binh, chân bị xích khóa vào xe tăng để khỏi bỏ chạy, đã là những chuyện mà người chiến binh VNCH đã mục sở thị rất thường trên chiến trường miền nam.

Những người chiến binh VNCH thấy những biểu hiện vô nhân tính của chế độ miền bắc VN như thế, họ đã nghĩ gì? Họ có thù hận những em bé cán binh tuổi bằng con, em của mình? Có đành lòng dùng lưỡi lê đâm "nghe sột một tiếng" vào bụng của tù binh nơi chiến trường như diễn tả của tên nhà văn cộng sản Tạ Duy Anh?

Nơi chiến trường đẫm máu, dĩ nhiên là phải tranh sống, giành thắng lợi, nhưng với kẻ đã vất súng quy hàng, mà có hành động khát máu như Tạ Duy Anh, thì chỉ có thể nói lên một điều, đó là sản phẩm của chế độ CS, còn tệ hơn loài sói lang!

Hãy nhìn những hình ảnh chân thật mà phóng viên ngoại quốc chụp được nơi chiến trường miền nam máu lửa, mới thấy hết được cái tính nhân bản sáng ngời của người chiến binh VNCH. Một anh lính cộng hòa cho anh tù binh miền bắc ăn bánh chưng, phải cầm miếng bánh và cho anh tù binh ăn từng miếng vì hai tay anh tù binh bị trói. Ăn xong còn đốt một điếu thuốc cho anh tù binh phì phà. Giữa chiến trường còn vương vãi đầy dấu tích chết chóc của đồng đội, có thể người tù binh này đã từng bắn chết đồng đội của mình, nhưng anh lính cộng hòa vẫn không để thù hận làm thui chột lương tri của mình, vẫn kiên nhẫn đút từng miếng bánh cho anh tù binh bộ đội miền bắc. Thật là đẹp, thật là nhân bản!

Nói cho cùng, dù là người lính cộng hòa, được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản ngay từ nhỏ, hay một cán binh miền bắc, từ lúc vỡ lòng đã nghe tuyên truyền về "Đế quốc Mỹ, về ngụy quyền Sài Gòn xấu xa thế này thế kia", về "Bác và Đảng là ánh sáng chỉ đường" v.v... thì họ cũng chỉ là người lính. Giữa chiến trường, họ sẵn sàng lấy mạng nhau để giành sự sống, giành chiến thắng, nhưng tàn cuộc chiến rồi, tiếng súng đã ngưng, thì những năm tháng chiến tranh chỉ còn là những hồi ức, tuy rất đau thương và xót xa, nhưng cũng không thiếu những ghi nhớ tuyệt vời về tình đồng đội, về dặm trường hành quân đi qua những vùng đất quê hương đầy khổ nạn!

Đọc những hồi ký, truyện ngắn của những nhà văn một thời trong quân đội hai bên, ngoại trừ Tạ Duy Anh, tôi không thấy những biểu hiện thù hận gì, và đó là bản chất của người lính, có thể kiến thức của tôi hạn hẹp, nhưng đó là cảm nhận chung của tôi.

Thế thì theo như những gì ông Bùi Tín nêu lên trong bài viết Món nợ hoà hợp hoà giải, tôi thấy ông đã sai lầm khi trao cho tổ chức Nhịp cầu Hoàng Sa, một tổ chức nhỏ bé với chức năng của một tổ chức từ thiện, cái mục tiêu quá lớn, lại không mấy chính xác, đó là Hoà hợp hoà giả dân tộc. Bởi vì, theo tôi, những người một thời ở trong quân đội hai bên, VNCH và miền Bắc, đã từ lâu họ không còn quan tâm đến thù hận hai bên trong tư cách người chiến binh. Bằng chứng, như ông đã thấy, trong lễ kỷ niệm 19 tháng 1 ngày mất Hoàng Sa vào tay Trung Cộng, những cựu cán binh trong bộ đội miền bắc trước đây cũng đã xuống đường tri ân 74 liệt sĩ hải quân VNCH đã hy sinh giữ gìn mảnh đất cha ông. Và tôi tuyệt đối tin tưởng rằng phần đông những cựu chiến binh VNCH cũng thấy vô cùng phẫn nộ khi biết rằng những chiến sĩ Việt Nam đã bị trói tay, không được chống trả để giặc Tàu sát hại trong trận Gạc Ma. Những chiến binh ở hai phía đối nghịch, sau cuộc chiến, tâm tình của họ đã là như thế, thì có cần gì cái gọi là hòa giải hòa hợp?

Thế thì vấn đề của đất nước chúng ta hiện nay nằm ở chổ nào?

Theo tôi, vấn đề nằm ở chỗ chế độ CSVN, kể từ năm 1975 đến nay đã liên tục lừa dối dân tộc Việt Nam, không coi dân tộc là cội nguồn của chính họ, hết theo Liên Sô lại quay qua ôm chân thằng Tàu, kẻ thù muôn kiếp của Việt Nam. Chúng khăng khăng đặt quyền lợi của đảng CS và bè phái lên trên quyền lợi tối thượng của tổ quốc, ngang nhiên dâng đất, dâng biển cho TQ để đạt sự đỡ đầu của tàu cộng, kéo dài quyền thống trị trên đầu trên cổ của nhân dân. Chúng không ngần ngại dùng bạo lực của lực lượng chó săn để đàn áp các tiếng nói phản kháng, bỏ tù những con người yêu nước, lo lắng cho vận mạng nước nhà trước họa bắc thuộc. Chúng tuyên truyền đủ kiểu về vai trò chủ đạo của người dân trong mọi hoàn cảnh, nhưng trong thực tế, chúng coi dân như rơm rác, từng ngày từng tháng đẩy dân vào thế đối mặt với chế độ. Nói cho gọn, chế độ CSVN hiện nay là kẻ thù của dân tộc Việt Nam và ngược lại.

Tình trạng đối đầu giữa chế độ CSVN và nhân dân hiện nay có cần sự hòa hợp hòa giải mà ông Bùi Tín đề cập không vậy?

Theo ý kiến của tôi, đã quá muộn màng cho ý tưởng tốt đẹp này!

Lý do vì sao?

Thưa ông Bùi Tín,

Đối với những người, dù trải qua nhiều cay đắng trong chế độ CSVN, bị săn đuổi, bị vây bắt, như ông Bùi Tín và ông Phạm Đình Trọng, nhưng vẫn luôn tin tưởng vào "Bác Hồ Vĩ Đại", thì các ông nghĩ rằng chế độ mà khởi thủy do Hồ Chí Minh tạo dựng nên vì "lòng yêu nước" còn có thể xây dựng trở lại tốt đẹp hơn sau khi loại bỏ những "hiện tượng như Nguyễn Phú Trọng". Nhưng với nhân dân Việt Nam, những người đã nhìn quá rõ bản chất bịp bợm của Hồ Chí Minh và đàn lũ tay sai, cháu chắt của ông ta, không ai còn nghi ngờ gì về tính cách thay đổi màu sắc nhanh còn hơn tắc kè của cộng sản. Ngoài những người ăn theo trong nhóm lợi ích, hoặc cam tâm trụy lạc, mắt mù tai điếc, không ai còn dám tin vào một lời nào của cộng sản!

Nhân việc này, tôi lại nhớ tới bài tôi viết cách đây không lâu, tựa đề "Nói chuyện tầm phào với ông Hữu Thỉnh", trong đó tôi viết theo lối phiếm luận về cái gọi là thông điệp do nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, sau khi thảo luận với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, đưa ra. Thông điệp ấy cho biết vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương, 10 tháng 3 âm lịch năm Đinh Dậu 2017, Hội Nhà Văn Việt Nam sẽ mời những nhà văn nam nữ Việt Nam ở hải ngoại về tham dự một hội nghị văn học hòa hợp hòa giải, cho dù trước năm 1975 những nhà văn này đã đóng góp thế nào với chế độ cũ. Nghe cái thông điệp do Hữu Thỉnh đưa ra, thật sướng cái lỗ tai! Nhưng tên nhà thơ gà tồ này quá non nớt. Nghệ thuật dụ dỗ người khác phải có đủ những yếu tố sau đây: Miệng lưỡi phải ngon ngọt, miếng mồi phải thơm tho. Hữu Thỉnh đã bàn tính kỹ lưỡng với Tổng Trọng, nhưng xem ra nhà thơ gà tồ đã làm Tổng Trọng thất vọng rồi! Phù phép lừa bịp của Hồ Chí Minh truyền tới đời của Hữu Thỉnh đã không được trau dồi, đã quá lỗi thời, chỉ thoáng qua tai là người ta nhìn ra những sơ hở trần trụi.

Thứ nhất, nhà thơ gà tồ ra mặt hòa giải văn học, kêu gọi văn nhân nghệ sĩ VN hải ngoại về "làm giàu" cho nhà nước, nhưng cũng chính cái mặt mốc Hữu Thỉnh này không lâu trước đây còn lôi mấy vị văn nhân nghệ sĩ của phong trào Nhân văn giai phẩm miền bắc thời 1956 ra đấu tố tiếp để lấy điểm với chế độ. Lời đấu tố của Hữu Thỉnh như thế nào thì không nói cũng biết, toàn là những lời thối tha của một tên bưng bô văn học. Những người bị án oan trong vụ NVGP ở miền bắc cho tới ngày nay vẫn không hề được xin lỗi, không được phục hồi danh dự, thế mà Hữu Thỉnh lại bỏ công múa mép kêu gọi văn nhân nghệ sĩ VN hải ngoại về họp hội nghị hòa giải? Hội Nhà Văn VN có cả ngàn hội viên, danh tài hàng hàng lớp lớp, đảng dùng không hết, vậy gà tồ bỏ vòi ra hải ngoại câu độ mấy nhà văn về để làm gì? Về để sắp hàng sau lưng đồng chí chủ tịch à? để phụ giúp gà tồ viết thơ văn bốc đảng lên tầng mây? Nghe mà phát ớn, đừng giỡn chứ cha nội! Nhà thơ gà tồ mới than như bọng là không có tiền để trang trải cho chi phí của hội, bây giờ tiền đâu mua hoa tươi chưng bàn chủ tịch cho đẹp, mua trà lá bia rượu đãi đằng anh chị nhà văn hải ngoại về hội nghị hòa giải đây cha? Mời người ta về, mà giọng của thông điệp nghe phát ngứa lỗ tai, cái gì mà "Sông Thạch Hãn vẫn còn ứa máu... chúng ta lấy đại nghĩa dân tộc... để mời những nhà văn VN ở hải ngoại còn lương tri, về làm giàu cho đất nước..." Một nhà thơ từng đoạt giải thưởng lớn (nghe nói là ăn gian) về thơ với hai tập Thương lượng với thời gian và Trường ca Biển mà đưa ra cái thông điệp mời khách đầy vẻ kẻ cả, ban phát ơn sâu nghĩa đậm như thế quả là tên nô tài vô dụng của Tổng Trọng!

Hãy dẹp nhà thơ gà tồ qua một bên, hãy nói về Tổng Trọng, Thủ Tướng Phúc, Chủ Tịch Quang để xem mấy ông này hô hào hòa hợp hòa giải như thế nào?


Tổng Trọng thì hay thậm thò thậm thụt cửa sau với thuộc hạ tay sai nên ít nghe ổng kêu gào hòa hợp hòa giải gì, chỉ có mặt nổi là hai ông Nguyễn Xuân Phúc và Trần Đại Quang đưa ra lời dụ hoặc việt kiều. Ông Phúc thì phong chức cho mỗi việt kiều làm đại sứ của nước CHXHCNVN ở nước sở tại. Lúc mới nghe lời kêu gọi đầy dụ hoặc của ông Thủ Phúc, tôi mừng quýnh, tính nộp đơn xin ông Phúc cho tôi chính thức vào biên chế làm đại sứ việt kiều, ai dè coi lại thông điệp mới biết Thủ Phúc chỉ dùng nghĩa bóng, tức là mỗi việt kiều ở hải ngoại nên vì quê hương, vì những lãnh tụ "mặt hổ phù lưng cánh phản trăm mến ngàn yêu" của CHXHCNVN mà tranh thủ cảm tình của dân chúng địa phương cho nước nhà. Rõ chán!

Tới ông Chủ Tịch nước Trần Đại Quang thì mức độ dụ hoặc càng được nâng lên ngang tầm quốc tế, ông chủ tịch không gọi việt kiều là đại sứ, ông chơi ngon hơn Thủ Phúc khi thử máu việt kiều và tuyên bố máu thịt việt kiều là máu thịt của quê hương, của đất nước. Đúng là phù phép của mấy ông bà trong tứ trụ triều đình còn nhuyễn hơn mấy lão thần tiên trong truyện Phong Thần! Rõ ràng ràng cái thằng mới ngày nào quần áo rách nát, mắt trắng dã vì đói khát, lả người vì cướp biển Thái Lan, được nhà nước CSVN dán cho cái nhãn hiệu "nô lệ đế quốc Mỹ, nô lệ phương tây, chạy theo bơ thừa sữa cặn", bây giờ cũng thằng đó, nhưng dollars đầy túi, mặt mũi xán lạn thì ông chủ Quang vẽ cho nó một cái tên "máu thịt của đất nước" và trân trọng mời nó về làm bò sữa!

Nói cho gọn là "chế độ ta" chỉ muốn có tiền để nuôi dưỡng sự sống của đảng, có tiền để tống vào họng mấy túi tham không đáy để chúng tiếp tục hụ hợ cho đảng, ngay như mấy văn nhân hải ngoại mà đảng cũng muốn gọi về để "làm giàu" cho đất nước là rõ ý đồ của đảng! Thực ra mấy ông bà văn nhân hải ngoại có đem lại tiền bạc gì cho đảng đâu, nhưng đảng muốn dùng "đại nghĩa dân tộc" để thuyết phục mấy ông bà văn nhân làm cái loa tuyên truyền, cái đó mới thực sự là Tiền.

Còn những con người một lòng vì quê hương đất nước, quyết tâm gióng lên tiếng nói bất khuất về những bất công xã hội, về hiểm họa bắc thuộc của tổ quốc thì không đem lại tiền bạc gì cho đảng, mà chỉ đem lại những lo sợ, những xấu hổ vì đã làm rõ mặt gian ác của một chế độ tay sai, bán nước cho tàu cộng, nên chế độ không cần hòa hợp hòa giải gì ráo, cứ lấy mấy bộ luật hình sự rừng rú 88,79, 258 v.v... và câu kinh nhật tụng "Lợi dụng quyền tự do dân chủ..." để nhốt họ vào tù ngục. Những Cấn Thị Thêu, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần thị Nga, Trần Anh Kim, Trần Huỳnh Duy Thức, Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Hóa, LS Nguyễn Văn Đài, Trần Thị Thúy, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh v.v... và còn bao nhiêu người nữa hiện vẫn còn bị giam trong ngục tối, với những bản án được định trước bởi đảng cướp, chỉ là hợp thức hóa ở những phiên tòa gọi là công khai, nhưng rào cản bốn phía, thân nhân có khi còn không vào được.

Chẳng những chế độ sợ hãi với người sống, ngay cả với những người mà thân xác họ đã hóa thành tro bụi từ lâu, chế độ vẫn luôn luôn kiêng kỵ. Ngày 19 tháng 1 năm 2017 vừa qua, nhân kỷ niệm ngày 74 chiến sĩ hải quân VNCH hy sinh trong trận Hoàng Sa với Trung Quốc, lực lượng côn an, an ninh rải đầy ngoài đường để ngăn chặn, cô lập những tiếng nói. Những người hơi có chút ảnh hưởng quần chúng là từ sáng sớm an ninh đã chận ở đầu ngõ, có khi còn được an ninh mời đểu đi uống cà phê. Luật Sư Lê Công Định, cô Phạm Thanh Nghiên và nhóm bạn hữu ghé thăm nghĩa trang những liệt sĩ cũng bị làm khó dễ đủ điều. Ngoại trưởng John Kerry của Hoa Kỳ tới thăm VN lần cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình, mong được gặp Luật Sư Lê Công Định, nhưng an ninh can thiệp thô bạo vào vụ này, thế là anh LCĐ cũng phải ở nhà.

Thế thì hoà hợp hoà giải dân tộc cái nỗi gì chứ? Chế độ đưa ra lời ngon ngọt toàn là để dụ dỗ việt kiều, dụ dỗ những ai nhẹ dạ đưa đầu cho chúng chém. Chiêu thức hòa giải hòa hợp do Việt Cộng đưa ra giống một viên thuốc độc bọc đường, hay giống như chai bia mà ông Dương Bạch Mai, đại biểu quốc hội, có tiếng là chống Trung Quốc, đã uống vào ngày 4 tháng 4 năm 1964 trong giờ giải lao trước khi ông dự định đọc một bài diễn văn nẩy lửa chống TQ nhân kỳ họp lần thứ 8 của quốc hội khóa 2 khi Chu Ân Lai sắp qua thăm Hà Nội. Ông Dương Bạch Mai uống xong chai bia "tình nghĩa" của đảng thì cũng là lúc mà ông cảm nhận được nghĩa tình của đảng nó lớn cỡ nào!

Tình nghĩa của người cộng sản Việt Nam là như thế, ai muốn nhào vô hòa giải hòa hợp, xin mời!