Sau một thời gian ngắn bị bắt giam, thủ lĩnh lãnh đạo biểu tình đòi dân chủ Hong Kong Joshua Wong Chi-fong đã bị buộc tội cản trở người thi hành án. Bất chấp người lãnh đạo bị bắt, đoàn biểu tình tiếp tục tụ tập và phản đối để đánh dấu hai tháng cảnh sát dùng hơi cay tấn công lại đám đông.
Wong vừa tròn 18 tuổi, trở thành gương mặt nổi bật trong phong trào biểu tình đòi cải cách bầu cử dân chủ ở đặc khu Hong Kong. Anh đã bị bắt cùng nhiều người tham gia biểu tình khi cảnh sát đổ quân dọn dẹp, loại bỏ những chướng ngại vật ở khu vực biểu tình ở quận Mong Kok. Wong đã được tại ngoại nhưng không thể đi đến các khu vực tập trung đông người cho đến khi diễn ra phiên tòa xét xử anh ngày 14/1 tới. Anh bị hạn chế đi lại trừ lúc đi đến trường đại học. Wong cho biết: “Tôi không thể vào Mongkok cho đến ngày 14/1. Tôi cảm thấy hoang mang.”
Tuy nhiên, Wong tiếp tục tố cáo cảnh sát đã bạo lực với người biểu tình. Reuters dẫn lời Wong, trả lời phóng viên bên ngoài Tòa án thành phố Kowloon: “Họ (cảnh sát - PV) ép tôi xuống mặt đất để khống chế và làm tôi bị thương. Việc này gây ra vết thương trên cổ và mặt tôi. Họ liên tiếp, 6 đến 7 lần, cố làm tổn thương cơ thể tôi, kể cả vùng kín”. Một lãnh đạo khác của đoàn biểu tình, Lester Shum cũng cáo buộc cảnh sát đã dùng bạo lực khi bắt giữ cậu: “Họ đấm đá khi bắt giữ tôi . Họ thụi đầu gối vào bụng và đá vào thắt lưng tôi. Họ còn kéo tóc và đè đầu tôi xuống mặt đất hai lần”.
Tối ngày 28/11, rạng sáng sớm ngày 29/11, hàng trăm người tiếp tục tụ tập tại Mong Kok để đánh dấu tròn hai tháng kể từ khi cảnh sát dùng hơi cay chống lại người biểu tình. Đám đông đã bao vây khu vực mua sắm Yeung Choi Street, phong tỏa các con đường khiến nhiều cửa hàng trên phố phải đóng cửa. Đụng độ giữa cảnh sát và người biểu tình đã xảy ra cùng một số vụ bắt giữ. Cảnh sát đã dùng hơi cay và dùi cui để giải tán đám đông khiến biểu tình lan rộng ra khu vực Mong Kok. Tờ The Wall Streets Journal gọi tình cảnh này là cuộc rượt đuổi giữa mèo và chuột trong suốt đêm qua.
King Siu, một sinh viên 19 tuổi tại Đại học Baptist Hồng Kông khẳng định bạo lực quá mức của cảnh sát là một trong những lý do khiến anh tiếp tục đi ra phố. Trong khi đó, một cảnh sát giấu tên cho biết, ông rất “quan ngại” về việc một cán bộ an ninh đã bị đình chỉ sau khi bị khiếu nại tấn công quá mức vào đoàn biểu tình.
29/11/2014 - 09:53
Hương Nguyên
Theo The Wall Streets Journal
Friday, November 28, 2014
Lầu Năm Góc: Trung Quốc hành xử “vô trách nhiệm”
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel hôm 19-12 tuyên bố Trung Quốc hành xử “vô trách nhiệm” trong vụ tàu hải quân Mỹ - Trung suýt va nhau trên biển Đông hồi đầu tháng này.
Theo các quan chức Mỹ, tàu tuần dương USS Cowpens đã bị một tàu đổ bộ Trung Quốc chặn đường di chuyển, buộc phải đổi hướng để tránh va chạm ở khoảng cách gần ngày 5-12. “Việc tàu Trung Quốc tiến tới tàu USS Cowpens chỉ cách nhau 91 m là một hành động vô trách nhiệm” - ông Hagel nói trước báo giới.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cho rằng cần có một bộ quy tắc rõ ràng giữa quân đội hai nước để tránh những đụng độ trong tương lai. Ảnh: REUTERS
Ông Hagel cho rằng vụ đối đầu trên biển Đông là vụ việc đầu tiên được báo cáo trong nhiều năm qua và cho thấy tính cấp thiết cần có một bộ quy tắc rõ ràng giữa quân đội hai nước nhằm tránh những đụng độ trong tương lai tại Thái Bình Dương.
Những lời bình luận của ông Hagle là phản ứng công khai đầu tiên từ một quan chức Lầu Năm Góc kể từ sự cố xảy ra cách nay 2 tuần.
Phát biểu tại cuộc họp báo hôm qua (19-12), Đại tướng Martin Dempsey - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ - cho biết các quan chức quân đội Mỹ và Trung Quốc đang nhóm họp để thảo luận về những quy tắc ứng xử khi quân đội hai nước đối đầu trên biển, trên không và trên mạng.
Một ngày trước đó, Bộ ngoại giao Trung Quốc bác bỏ những bình luận của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry về biển Đông và yêu cầu Mỹ cẩn trọng trong lời nói và hành động của mình. Ngoài ra, cơ quan này cũng chỉ trích Mỹ, Nhật và Philippines vì cho rằng các nước này đã có những hành động và lời nói gây bất hòa với Trung Quốc về vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông.
Thứ Sáu, ngày 20/12/2013 - 10:46
Theo H.Bình (NLĐO / VOA, Reuters)
Trung Quốc đưa thêm một tàu hộ vệ tên lửa ra Biển Đông
Dân trí Ngày 28/11, tại Quảng Châu, Trung Quốc đã diễn ra lễ bàn giao tàu hộ vệ tên lửa type 056 kiểu mới cho lực lượng Hải quân nước này nhằm tăng cường hoạt động tại khu vực Biển Đông.
Tàu khu trục nhỏ Type 056 của Trung Quốc.
Tàu hộ vệ tên lửa này với tên gọi là “Triều Châu”, số hiệu 595. Sau khi bàn giao đưa vào sử dụng, tàu hộ vệ này sẽ đảm nhận các nhiệm vụ như: tuần tra, hộ tống tàu thuyền trên biển, tác chiến chống ngầm, tác chiến đối hải….
Tàu này có chiều dài 88,9 m, chiều rộng 11,14 m, lượng giãn nước 1.300 tấn, tốc độ tối đa 25-30 hải lý/giờ. Số nhân viên trên tàu là 60 người.
Vũ khí trang bị trên tàu gồm pháo phòng không tầm thấp FL-3000, pháo tàng hình PJ26, pháo hạm 30 mm, tên lửa chống hạm YJ-83, ngư lôi…
Việc tăng cường thêm một tàu hộ vệ kiểu mới type 056 cho Hải quân Trung sẽ giúp nước này tiếp tục các hoạt động bành trướng của mình tại khu vực Biển Đông.
Hương Giang
Theo Chinanews
Bạo lực leo thang, Tân Cương tuyển 3.000 cựu binh sĩ để bảo vệ dân
Dân trí Thủ phủ vùng tự trị Tân Cương của Trung Quốc sẽ tuyển 3.000 cựu binh sĩ để giúp bảo vệ người dân địa phương, chính phủ Trung Quốc hôm nay cho biết.
Cảnh sát bán quân sự tuần tra tại Tân Cương.
Các cựu binh sĩ sẽ được xem xét kỹ càng để xác định các quan điểm chính trị của họ.Họ sẽ tham gia lực lượng cảnh sát và quân đội, vốn thường xuyên tuần tra thủ phủ Urumqi.
Đây là lần đầu tiên các cựu binh được Bắc Kinh tuyển chọn để bảo vệ Urumqi.
Những người nộp đơn cho vị trí tuyển dụng phải dưới 30 tuổi, rời quân đội trong vòng 1 năm qua và phải chứng minh được rằng họ phản đối các hoạt động tôn giáo trái phép và tư tưởng ly khai.
Động thái trên diễn ra trong bối cảnh giới chức thực hiện một cuộc truy quét nhằm vào nhóm thiểu số Hồi Giáo Duy Ngô Nhĩ.
Trung Quốc đã cáo buộc người Duy Ngô Nhĩ, vốn đang mong muốn nền độc lập cho Tân Cương, là thủ phạm của hàng loạt các vụ bạo lực trong khu vực thời gian gần đây.
Căng thẳng đã gia tăng tại Tân Cương, nơi 175 người thiệt mạng kể từ đầu năm trong các vụ xô xát giữa người Duy Ngô Nhĩ và người Hán. Con số này gia tăng đột biến so với cùng kỳ năm ngoái, khi có 45 người thiệt mạng.
Giới chức Trung Quốc đã bắt giữ hơn 300 người vì bị tình nghi tham gia khủng bố tại Tân Cương trong 6 tháng qua.
Bắc Kinh nói rằng các phần tử cực đoan Duy Ngô Nhĩ được khuyến khích và hỗ trợ bởi các nhóm khủng bố nước ngoài. Trong khi đó, người Duy Ngô Nhĩ khẳng định rằng Bắc Kinh đã thổi phồng mối đe dọa mà họ gây ra để biện minh cho các chính sách hà khắc.
Đã xảy ra vài vụ tấn công có tổ chức nhằm vào thường dân Tân Cương, vốn làm nhiều người thiệt mạng.
Hồi tháng 7, vụ bạo lực nghiêm trọng đã khiến 96 người thiệt mạng tại huyện Yarkant thuộc Tân Cương.
Truyền thông nhà nước Trung Quốc nói rằng đó là một vụ tấn công khủng bố, nhưng các nhà hoạt động nói rằng cảnh sát nổ súng vào người dân đang phản đối một cuộc truy quét tại lễ Ramadan của người Hồi giáo.
An BìnhTheo BBC
Bắc Kinh công bố kế hoạch khai thác dầu tại Biển Đông
Trọng Thành
Ngày 28-11-2014 16:07
Trung Quốc thông báo chương trình phát triển 9 mỏ dầu tại Biển Đông và biển Bột Hải - Reuters
Theo nhật báo mạng Đài Loan Want China Times, hôm nay, 28/11/2014, Văn phòng Chính phủ Trung Quốc thông báo chương trình phát triển 9 mỏ dầu tại Biển Đông và biển Bột Hải nhằm bảo đảm nguồn năng lượng trong nước. Báo Đài Loan dự đoán, kế hoạch này « chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc xung đột với các nước láng giềng ».
Dẫn lại tin thông tin từ tờ nhật báo thương mại Hồng Kông, Want China Times nhấn mạnh đây là lần đầu tiên Văn phòng Quốc vụ viện Hoa lục - tức Chính phủ Trung Quốc – công bố một kế hoạch khai thác dầu lớn tại Biển Đông, với dự kiến 10.000 tấn dầu/năm trong vòng 6 năm (2014-2020).
Cho đến nay, Trung Quốc đã khai thác dầu tại nhiều khu vực ven bờ với diện tích tổng diện tích khoảng 160.000 km² tại Biển Đông, vùng biển có diện tích hơn 3 triệu km². Với sự phát triển của các phương tiện công nghệ cho phép khoan dầu tại biển sâu và áp lực của nền kinh tế khát năng lượng, Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển các giàn khoan ngoài khơi xa.
Cách nay hơn hai năm, ngày 23/06/2012, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã loan báo mời nước ngoài đầu thầu thăm dò 9 lô dầu khí ở khu vực mà họ xác định là « vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc » ở Biển Đông. Các lô dầu này nằm sát bờ biển miền Trung và miền Nam của Việt Nam.
Xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam lên đến đỉnh điểm với sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu HD-981 vào vùng biển nằm trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã bị nhiều quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, lên án. Giàn khoan nói trên đã rút ra khỏi vùng biển này vào giữa tháng 7/2014.
Theo Reuters cũng hồi tháng 07/2014, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc tuyên bố đang nghiên cứu khả năng xây dựng một nhà máy khí hóa lỏng nổi trị giá hàng tỷ đô la để khai thác khí đốt ở vùng nước sâu của Biển Đông.
Biển Đông là khu vực được cho là có trữ lượng lớn về dầu khí. Theo nhật báo kinh tế Pháp Les Echos, một số ước tính, đặc biệt của các công ty dầu khí và bộ ngành Trung Quốc, đưa ra các con số khổng lồ, từ 17 đến 50 tỷ tấn. Tuy nhiên, theo nhiều ước đoán từ phía Hoa Kỳ, thì trữ lượng dầu Biển Đông chỉ ở mức khoảng 1,5 tỷ tấn.
Trữ lượng này là không nhỏ, nhưng chỉ tương đương với nhu cầu dầu mỏ hiện tại của Trung Quốc trong vòng ba năm. Báo Want China Times, trong bài viết nói trên, nêu ra con số 5,22 tỷ tấn dầu có thể khai thác được tại Biển Đông, con số gần với kết quả điều tra năm 1966 của Ủy ban Kinh tế Liên Hiệp Quốc về Châu Á.
Ngày 28-11-2014 16:07
Trung Quốc thông báo chương trình phát triển 9 mỏ dầu tại Biển Đông và biển Bột Hải - Reuters
Theo nhật báo mạng Đài Loan Want China Times, hôm nay, 28/11/2014, Văn phòng Chính phủ Trung Quốc thông báo chương trình phát triển 9 mỏ dầu tại Biển Đông và biển Bột Hải nhằm bảo đảm nguồn năng lượng trong nước. Báo Đài Loan dự đoán, kế hoạch này « chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc xung đột với các nước láng giềng ».
Dẫn lại tin thông tin từ tờ nhật báo thương mại Hồng Kông, Want China Times nhấn mạnh đây là lần đầu tiên Văn phòng Quốc vụ viện Hoa lục - tức Chính phủ Trung Quốc – công bố một kế hoạch khai thác dầu lớn tại Biển Đông, với dự kiến 10.000 tấn dầu/năm trong vòng 6 năm (2014-2020).
Cho đến nay, Trung Quốc đã khai thác dầu tại nhiều khu vực ven bờ với diện tích tổng diện tích khoảng 160.000 km² tại Biển Đông, vùng biển có diện tích hơn 3 triệu km². Với sự phát triển của các phương tiện công nghệ cho phép khoan dầu tại biển sâu và áp lực của nền kinh tế khát năng lượng, Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển các giàn khoan ngoài khơi xa.
Cách nay hơn hai năm, ngày 23/06/2012, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã loan báo mời nước ngoài đầu thầu thăm dò 9 lô dầu khí ở khu vực mà họ xác định là « vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc » ở Biển Đông. Các lô dầu này nằm sát bờ biển miền Trung và miền Nam của Việt Nam.
Xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam lên đến đỉnh điểm với sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu HD-981 vào vùng biển nằm trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã bị nhiều quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, lên án. Giàn khoan nói trên đã rút ra khỏi vùng biển này vào giữa tháng 7/2014.
Theo Reuters cũng hồi tháng 07/2014, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc tuyên bố đang nghiên cứu khả năng xây dựng một nhà máy khí hóa lỏng nổi trị giá hàng tỷ đô la để khai thác khí đốt ở vùng nước sâu của Biển Đông.
Biển Đông là khu vực được cho là có trữ lượng lớn về dầu khí. Theo nhật báo kinh tế Pháp Les Echos, một số ước tính, đặc biệt của các công ty dầu khí và bộ ngành Trung Quốc, đưa ra các con số khổng lồ, từ 17 đến 50 tỷ tấn. Tuy nhiên, theo nhiều ước đoán từ phía Hoa Kỳ, thì trữ lượng dầu Biển Đông chỉ ở mức khoảng 1,5 tỷ tấn.
Trữ lượng này là không nhỏ, nhưng chỉ tương đương với nhu cầu dầu mỏ hiện tại của Trung Quốc trong vòng ba năm. Báo Want China Times, trong bài viết nói trên, nêu ra con số 5,22 tỷ tấn dầu có thể khai thác được tại Biển Đông, con số gần với kết quả điều tra năm 1966 của Ủy ban Kinh tế Liên Hiệp Quốc về Châu Á.
Người Việt Nam ăn lương thấp nhất ASEAN
(Baodatviet) - Lao động Việt Nam nhận mức lương vào dạng thấp nhất ASEAN, theo các chuyên gia là do năng suất lao động thấp.
Lương thấp nhất ASEAN vì năng suất thấp
Tại Hội thảo "Chính sách tiền lương tại Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập" tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 25-26/11, ông Malte Luebke - Chuyên gia cao cấp về tiền lương của ILO khu vực châu Á -Thái Bình Dương cho biết, mức lương bình quân của Việt Nam ở mức 3,8 triệu đồng/tháng (181 USD) chỉ cao hơn Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực ASEAN như: Philippines (206 USD), Thái Lan (357 USD), Malaysia (609 USD), Singapore (3.547 USD).
Theo đại diện ILO, sự khác biệt lớn về tiền lương giữa các quốc gia thành viên ASEAN phản ánh những khác biệt lớn trên nhiều phương diện, trong đó có năng suất lao động. Những quốc gia ứng dụng công nghệ mới, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện cải cách cơ cấu và nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động cũng là những quốc gia tạo ra nền tảng cho hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp và chuyển đổi sang các lĩnh vực có giá trị tăng cao hơn.
Lao động Việt Nam đang nhận mức lương thấp nhất khu vực ASEAN |
Bà Nicola Connolly, Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu (Euro Cham) nhìn nhận, 65% người lao động Việt Nam rơi vào bẫy kỹ năng (thiếu kỹ năng thực tế), nên năng suất lao động thấp.
Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Minh Huân cho rằng, để cải thiện tiền lương thì nhất thiết phải cải thiện năng suất lao động bởi đây là hai yếu tố luôn tỷ lệ thuận với nhau. "Năng suất lao động không thể tăng đột biến, vì vậy, tôi cho rằng, lương cũng sẽ chỉ có thể tăng từ từ".
Lương 36 triệu/tháng, lãnh đạo tập đoàn vẫn khó sống
Một thông tin khác có liên quan, trước đó, Bộ Công thương đã công bố báo cáo thu nhập bình quân hàng tháng của viên chức quản lý tập đoàn, tổng công ty năm 2013, báo cáo công khai mức thu nhập của 120 lãnh đạo cấp cao thuộc 11 Tập đoàn, Tổng công ty lớn.
Theo đó, mức lương cao nhất trong bảng thống kê thu nhập của các lãnh đạo cấp cao các tập đoàn kinh tế Việt Nam là 74,72 triệu đồng/tháng thuộc về ông Đỗ Ngọc Khải - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu thực vật Việt Nam.
Danh sách người nhận mức thu nhập trên 50 triệu mỗi tháng có đầy đủ lãnh đạo các tập đoàn Than khoáng sản, Xăng dầu, Dệt may và Hóa chất, dầu khí, ngành điện…
Theo Nghị định 50 và 51 của Chính phủ, thù lao cao nhất cho chủ tịch hội đồng thành viên một doanh nghiệp nhà nước là 36 triệu đồng/tháng, tương đương 432 triệu đồng/năm.
Phát biểu tại hội nghị toàn quốc về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hồi đầu năm nay, ông Trần Bắc Hà - Chủ tịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho rằng lãnh đạo nhiều tập đoàn, tổng công ty hiện rất “khó sống” với mức lương tối đa được quy định là 36 triệu đồng/tháng, đồng thời đề xuất rằng "tiền lương tại doanh nghiệp Nhà nước cũng phải theo cơ chế thị trường".
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết: “Mức lương như Bộ Công Thương công bố đã thấp hơn nhiều so với trước đây chúng ta đã biết là lương của họ phải 200-300 triệu đồng/tháng, do vậy với 75 triệu đồng/tháng, các vị lãnh đạo kêu thấp cũng… “có lý”.
“Họ nói không thể sống được với mức lương ấy là vị họ không quen sống với mức lương mà phần lớn người trong xã hội “nằm mơ cũng không thấy” mà thôi”- ông Doanh chua chát.
Lẽ thường, tiền lương cho lãnh đạo phải tỷ lợi thuận với lợi nhuận mà họ làm ra, với những đóng góp cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều tập đoàn được điểm danh trong danh sách có lãnh đạo nhận lương cao quanh năm ngày tháng chỉ thấy báo lỗ.
Đơn cử như Tập đoàn Điện lực, thường xuyên có mặt trong danh sách “lỗ khủng” - theo kết quả của Kiểm toán Nhà nước. Cụ thể, tính đến cuối năm 2011, chỉ riêng Tập đoàn Điện lực lỗ lũy kế hơn 38 ngàn tỷ đồng, đóng góp tới 78% khoản lỗ gần 49 ngàn tỷ đồng của 13 tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Khải An (Tổng hợp)
Bí ẩn ngôi nhà "trẻ con gào khóc" ở phố Trung Kính
(Baodatviet) - Theo TS. Vũ Bằng, không chỉ ở Việt Nam, nhiều nước trên thế giới cũng "khốn khổ" vì tia đất dữ.
Nói chuyện với chúng tôi về nhà ma ám, "dớp" đất, TS. Vũ Bằng, người nổi tiếng có khả năng "siêu âm" lòng đất cho biết, không chỉ ở Việt Nam mà ở các nước trên thế giới cũng gặp phải những tình huống khóc dở, mếu dở vì "dớp" đất ở.
Một ngày cuối thu năm 2012, TS. Vũ Bằng, Phó Viện trưởng Viện công nghệ nước và môi trường (Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam) nhận được một cuộc điện thoại từ một người phụ nữ tên T.. Nói chuyện qua điện thoại, chị T. cho biết chị đã có chồng và một con gái và vừa chuyển đến ở căn nhà trên đường Trung Kính (Hà Nội) được gần một tháng.
Theo lời chị T., ngôi nhà này đã qua tay rất nhiều chủ. Điều khiến chị "lăn tăn" là tại sao ở một vị trí đẹp, thuận tiện mà người ta lại bán với giá "mềm" như vậy?
Ảnh minh họa.
|
Ngày chuyển nhà, khi hai vợ chồng chị T. và cô con gái 5 tuổi vào nhà được một giờ đồng hồ thì con bé cứ gào khóc như bị ai đánh, dỗ như thế nào cũng không nín. Tưởng con có bệnh, anh chị đưa con đến bệnh viện khám nhưng bác sỹ "bó tay".
Lạ ở chỗ, cứ đến lớp mẫu giáo thì con bé rất ngoan nhưng hễ về nhà, cô bé lại chạy vào một góc, gào khóc. Biết có chuyện chẳng lành, chị T. "thỉnh" "thầy" cao tay về xem đất. "Thầy cúng" xem xong phán rằng, mảnh đất này có "vong" trẻ con nên phải làm lễ. Lễ lạt cúng bái mất cả tiền triệu nhưng "căn bệnh" gào khóc của cô bé vẫn không khỏi.
Sau khi nhận được lời cầu cứu của chị T., TS. Vũ Bằng đem máy móc đến khảo sát. Vừa đặt máy xuống, ông đã phát hiện ra tia đất dữ dưới nền nhà. Chính tia đất xấu này đã khiến con gái chị T. khó chịu dẫn đến "căn bệnh gào khóc"?
Phát hiện căn nhà trọ chứa nhiều trẻ em bị bắt cóc
Theo TS. Vũ Bằng, không chỉ ở Việt Nam, nhiều nước trên thế giới cũng "khốn khổ" vì tia đất dữ.
Cách đây mấy năm, ông gặp một chuyện "lạ" ở trên cùng mảnh đất ở đất nước Ba Lan. Đầu tiên là một gia đình dọn đến ngôi nhà này ở được một năm thì ly hôn. Sau khi ly hôn, mỗi người được chia một nửa ngôi nhà. Họ bán lại ngôi nhà cho ngân hàng lấy tiền rồi đường ai nấy đi. Sau đó mấy tháng, ngôi nhà này lại được ngân hàng bán lại cho một cặp vợ chồng khác. Cũng hơn một năm sau, cặp vợ chồng này cũng ly hôn trong sự ngỡ ngàng của bạn bè, hàng xóm.
Bởi trước đây, họ được người dân khu phố đánh giá là "biểu tượng" của sự hòa thuận và hạnh phúc. Chưa dừng lại ở đó, người chủ thứ ba cũng ra tòa ly hôn sau khi ở căn nhà này được một thời gian ngắn. Điều kỳ lạ đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các vụ ly hôn cho những khổ chủ sống trong ngôi nhà này mà không phải do họ túng quẫn về kinh tế hay ngoại tình.
Và, sau này khi đưa máy vào khảo sát, TS. Vũ Bằng đã phát hiện ra nguồn bức xạ rất mạnh từ dưới lòng đất của ngôi nhà này khiến cho tâm lý, đời sống của gia chủ đảo lộn dẫn đến những hành vi không chuẩn mực. Và có thể, đó cũng chính là một phần lý do khiến họ "tan đàn xẻ nghé"?
Theo như PV bản báo được biết thì thực hư thông tin này đến nay vẫn chưa được cơ quan chức năng nào kiểm chứng...
Thứ Sáu, 28/11/2014 19:57
(Theo ĐSPL)
Lần đầu tiên, TQ 'tung' kế hoạch khai thác 'mỏ dầu khủng' ở Biển Đông
Kiệt Anh (Theo Want China Times) - Thứ Sáu, ngày 28/11/2014 - 19:51
(PLO) – Đây là lần đầu tiên chính quyền Trung Quốc đề xuất khai thác các mỏ dầu lớn ở Biển Đông. Dựa theo bản kế hoạch giai đoạn 2014-2020 của Bắc Kinh, các mỏ dầu này sẽ đủ khả năng sản xuất hơn mười ngàn tấn dầu một năm cho Trung Quốc.
Theo tờ Want Dialy của Đài Loan, Chánh Văn phòng Quốc vụ Viện Trung Quốc vừa mới thông báo bản kế hoạch khai thác chín mỏ dầu lớn ở khu vực Biển Bột Hải và Biển Đông, nhằm mục đích “bảo vệ nguồn năng lượng của Trung Quốc".
Theo báo cáo được tờ Hong Kong Commercial Daily dẫn lại, bản kế hoạch này nhắm đến các mỏ dầu “xa bờ”, tiếp tục duy trì các mỏ dầu hiện tại, đồng thời phát triển thêm việc khai thác các mỏ dầu trên đất liền Trung Quốc.
Chánh Văn phòng Quốc vụ Viện Trung Quốc vừa mới thông báo bản kế hoạch khai thác chín mỏ dầu lớn ở khu vực Biển Bột Hải và Biển Đông
Đây là lần đầu tiên chính quyền Trung Quốc đề xuất khai thác các mỏ dầu lớn ở Biển Đông. Dựa theo bản kế hoạch giai đoạn 2014-2020 của Bắc Kinh, các mỏ dầu này sẽ đủ khả năng sản xuất hơn mười ngàn tấn dầu một năm cho Trung Quốc.
Truyền thông Đài Loan nhận định, động thái tự tiện tiến hành khai thác dầu mỏ lần này của Bắc Kinh chắc chắn sẽ một lần nữa đẩy nước này vào vòng xoáy xung đột với các quốc gia láng giềng. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đã liên tục va chạm với Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á xung quanh các tuyên bố xác lập lãnh thổ vô căn cứ và việc đơn phương triển khai giàn khoan, lực lượng quân sự gây phức tạp tình hình an ninh khu vực.
Theo các chuyên gia, sở dĩ Bắc Kinh liên tục đẩy mạnh hoạt động khai thác dầu khí xa bờ là vì ngành công nghiệp nước này đã phát triển thành công các công nghệ khoan dầu ở các vùng biển sâu. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu thụ năng lượng quốc nội của Trung Quốc đang ngày một tăng nhanh. Khu vực biển Hoa Đông được tin là đang nắm giữ trữ lượng lên đến bảy tỉ tấn dầu.
Kiệt Anh (Theo Want China Times)
Cô ruột Kim Jong-un tự sát 5 ngày sau khi chồng bị hành quyết?
Kể từ sau cái chết của người chồng Jang Song-thaek, cô ruột lãnh đạo Kim Jong-un, bà Kim Kyong-hui đột nhiên mất tích. Có nhiều tin đồn xoay quanh sự biến mất bí ẩn của bà Jang.
Ông Jang Song Thaek, chồng bà Kim Kyong-hui, bị xử tử cuối tháng 12-2013. Sau đó, bà Kim, em gái của cố lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il, cũng biến mất không một dấu tích.
Một số nguồn tin cho rằng bà Kim vẫn đứng sau ủng hộ cho cháu trai Kim Jong-un. Nhưng một số người bác bỏ và khẳng định bà đang sống trong tình trạng “thực vật” sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u.
Tuy nhiên, báo Wall Street Journal dẫn nguồn tin từ cựu giáo sư khoa học máy tính Kim Heung-kwang, người đào tẩu khỏi Triều Tiên sang Hàn Quốc năm 2004, cho biết bà Kim đã qua đời cách đây hơn 1 năm.
Bà Kim Kyong-hui (ảnh nhỏ) biến mất sau khi lãnh đạo Kim Jong-un xử tử chồng bà. Ảnh: Portal Jutarnji.hr
Nguồn tin tiết lộ bà Kim uống thuốc độc tự vẫn ngày 17-12-2013, 5 ngày sau khi chồng bà bị hành quyết. Cái chết của bà Kim trùng với lần kỷ niệm thứ 2 ngày chết của anh trai bà, Kim Jong-il.
Giáo sư Kim cho rằng bà Kim tự vẫn trong cơn tức giận. Để giải thích cho thông tin này, giáo sư Kim viện dẫn việc bà Kim không còn xuất hiện trên các phương tiện truyền thông Triều Tiên sau cái chết của chồng.
Ngoài ra, bà Kim cũng có mặt trong một bộ phim tài liệu chiếu lại phát trên truyền hình nhà nước hồi tháng 4 vừa qua, sau 2 tuần bộ phim được “chỉnh sửa một số nội dung”.
“Họ không làm điều đó với những người đang còn sống” – giáo sư Kim giải thích.
Nhưng dù thế nào đi nữa, thông tin mà giáo sư Kim – người đứng đầu tổ chức Đoàn kết Trí thức Triều Tiên (NKIS) – đưa ra vẫn nằm trong vòng bí ẩn và không có sự kiểm chứng độc lập. Giống như những tin đồn về sự biến mất của lãnh đạo Kim Jong-un, sau đó ông xuất hiện trở lại vào giữa tháng 10 năm nay.
Cũng là kết quả bà Kim Kyong-hui đã qua đời nhưng câu chuyện mà đài CNN (Mỹ) đăng tải lại khác hẳn. Dẫn lời Kang Myung-do, con rể đã đào tẩu của cựu Thủ tướng Triều Tiên Kang Sun-san, CNN cho hay bà Kim bị đột quỵ khi đang nói chuyện điện thoại với người cháu Kim Jong-un, vài ngày sau khi chồng bị hành quyết.
Theo ông Kang, 2 người tranh cãi về vụ xử tử ông Jang Song-thaek và bà Kim đột quỵ, phải nhập viện khẩn cấp nhưng không qua khỏi. Sở dĩ cái chết của bà Kim được giấu kín vì bà qua đời chỉ sau chồng vài ngày và chính phủ Triều Tiên không muốn người ta liên kết 2 vụ việc với nhau.
Ngoài lời kể của ông Kang Myung-do, đài CNN cho biết truyền thông Hàn Quốc cũng đưa tin bà Kim tự tử sau khi chồng bị hành quyết 5 ngày.
Thứ Sáu, ngày 28/11/2014 - 22:33
Theo P.Nghĩa/NLĐO (Theo Washington Post, CNN)
Hồ Chí Minh: Kẻ trộm thơ
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Hồ Chí Minh (HCM) được chế độ cộng sản (CS) xem là một nhà thơ lớn. Các giáo sư, các nhà nghiên cứu văn học CS thi nhau bốc thơm. Trong các kỳ thi trung học dưới mái trường CS, thơ HCM thường được đưa ra làm đề tài cho các em học sinh bình giải.
Theo viện Văn học Hà Nội, thi phẩm vĩ đại nhất của HCM là quyển Ngục trung nhật ký viết bằng chữ Hán, xuất bản tại Hà Nội năm 1960, gồm 132 bài thơ, đại đa số là tứ tuyệt (thơ 4 câu 7 chữ). Viện nầy cho biết HCM “đã viết trong cảnh lao tù từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943” (1). Ngục trung nhật ký đã được dịch qua chữ Việt, phát hành hàng trăm ngàn bản ở trong nước và cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở hải ngoại.
Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, nguyên là giáo sư văn chương Việt Nam tại Đại học Văn khoa Huế và Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau năm 1975 định cư tại Montreal, Canada, đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng tập thơ nầy và chứng minh rằng đa số các bài thơ trong Ngục trung nhật ký do một người Trung Hoa tên là “Già Lý” sáng tác, và chỉ có khoảng trên dưới 10 bài tứ tuyệt là của HCM. (2)
Giáo sư Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ tác phẩm nầy và đưa ra nhận xét như sau:"Phần phân tích ở trên chứng thực già Lý là chủ nhân của những bài thơ xây dựng theo kĩ thuật thơ Đường; những bài thơ nầy chiếm hết ba phần tư tác phẩm. Phần còn lại có thể coi là của Hồ Chí Minh. Tôi chỉ nói là có thể vì tôi không khẳng định được rõ ràng bài thơ nào đích thực là của Hồ Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác." (3)
Chỉ cần nhìn sơ qua hình bìa nguyên bản quyển Ngục trung nhật ký cũng đã thấy mâu thuẫn ngay từ đầu. Tấm bìa nguyên thủy của sách nầy ghi rõ ngày, tháng và năm sáng tác là 29-8-1932 / 10-9-1933, trong khi Viện Văn học cho rằng HCM sáng tác tập thơ nầy trong hai năm 1942 và 1943.
Ngoài những nghiên cứu của giáo sư Lê Hữu Mục, còn có những phát hiện khá thú vị khác về tài cóp thơ hoặc là trộm thơ của người khác của HCM. Ví dụ trong tuyển tậpQuốc Học, trường tôi do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành tại Huế năm 1996, có đăng bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của HCM.
Tuyển tập nầy chú giải rằng bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” là của HCM gởi cho Võ Nguyên Giáp năm 1954, và "mới được phát hiện". Giáo sư Tuệ Quang Tôn Thất Tuệ, trong bài "Ai là tác giả bài Tầm hữu vị ngộ?" (4), cho rằng nếu bài thơ nầy của một lãnh tụ (HCM) tặng cho một viên tướng (Võ Nguyên Giáp), được sáng tác năm 1954, cả hai đang cầm quyền và cầm quân, mà sao đến năm 1990 mới được phát hiện? Hai người nầy đều là những nhân vật quan trọng đầu não của chế độ CS, mà sao bài thơ có thể thất lạc một thời gian dài (1954-1990)? Giáo sư Tuệ Quang đi sâu vào chi tiết bài thơ và nhận xét: "Tóm lại, bài thơ "Tầm hữu vị ngộ", xét về hình thức lẫn nội dung, không phù hợp với thi cách và khuynh hướng của ông Hồ".
Hai câu chuyện trên đây còn đang được tranh cãi, nhưng qua đến câu chuyện bài thơ dưới đây thì có lẽ khó cãi. Số là trong sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, (5), đăng bản phiên âm bài thơ bằng chữ Hán của HCM gởi cho trung tướng Trần Canh (sau lên đại tướng). Bài thơ nầy còn được in trong sách Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (6). Nguyên văn bản phiên âm bài thơ như sau:
Tặng Trần Canh Đồng Chí
Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Bản dịch nghĩa của sách nầy:
Tặng Đồng Chí Trần Canh
Rượu ngọt “sâm banh” trong chén ngọc dạ quang
Sắp uống, tỳ bà trên ngựa đã giục giã
Say sưa nằm lăn nơi sa trường, anh đừng cười nhé!
Chớ để một tên địch nào trở về.
(Theo đúng nguyên văn trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 tr. 101.)
Hồ Chí Minh và Trần Canh |
Trần Canh (Chen Geng) lúc đó là một viên trung tướng thân cận của Mao Trạch Đông, đang là ủy viên dự khuyết ban Chấp hành Trung ương đảng CSTQ, tư lệnh quân khu Vân Nam kiêm chính ủy binh đoàn số 4, chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vân Nam. Hồ Chí Minh trực tiếp xin Mao Trạch Đông gởi Trần Canh qua làm cố vấn quân sự cho Việt Minh (VM).
Theo lệnh Mao Trạch Đông, Trần Canh đến Thái Nguyên gặp HCM vào cuối tháng 7-1950. Trong chiến dịch biên giới, Võ Nguyên Giáp dự tính tấn công Cao Bằng, nhưng Trần Canh chủ trương đánh Đông Khê. Theo Trần Canh, địa thế Cao Bằng hiểm trở, công sự phòng thủ kiên cố và quân Pháp ở đây đông, nên khó tấn công. Trong khi đó, Đông Khê tuy nhỏ, nhưng giữ một vị trí chiến lược quan trọng trên phòng tuyến giữa Cao Bằng và Lạng Sơn; quân Pháp ở đây ít, dễ tấn công hơn. Cuối cùng, VM vâng theo ý kiến của Trần Canh.
Ngày 16-9-1950, VM dùng chiến thuật biển người theo kiểu Trung Cộng, tung khoảng 10,000 quân tấn công Đông Khê, một cứ điểm nhỏ do 260 quân Pháp trấn giữ. Đông Khê ở phía đông nam Cao Bằng, phía bắc Thất Khê. (Thất Khê ở phía tây bắc Lạng Sơn). Sau ba đêm và hai ngày kịch chiến (16 đến 18-9-1950), VM chiếm Đông Khê.
Trận Đông Khê là trận thắng đầu tiên của VM, cô lập Cao Bằng và cắt đứt tỉnh lộ số 4, nối Cao Bằng với Lạng Sơn. Sau trận nầy, Trần Canh còn cố vấn cho Võ Nguyên Giáp thi hành kế hoạch “công đồn đả viện”, chận đánh riêng biệt hai cánh quân do hai trung tá Pháp chỉ huy. Cánh quân của trung tá Marcel Lepage rời Thất Khê tiến lên Đông Khê, bị VM phục kích ở Cốc Xá (nam Đồng Khê) ngày 8-10-1950. Trong khi đó, đơn vị của trung tá Pierre Charton rút khỏi Cao Bằng ngày 3-10-1950, cũng bị VM phục kích ngày 10-10-1950 tại đồi 477, tây nam Đông Khê.
Trong hai trận nầy, số quân Pháp vừa tử trận, vừa bị bắt làm tù binh lên đến 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai sĩ quan cấp trung tá. Đây là trận thất bại nặng nề đầu tiên của Pháp kể từ khi chiến tranh bắt đầu năm 1946. Ngoài số thương vong và thất thoát võ khí trên đất, lần đầu tiên 15 chiến đấu cơ của Pháp bị súng cao xạ của VM do Trung Cộng viện trợ, bắn hạ. Ngược lại, hai cuộc phục kích nầy là chiến thắng lớn lao nhất của VM từ năm 1946, hoàn toàn do quyết định của tướng TC.
Theo ghi chú dưới bài thơ HCM tặng Trần Canh trong sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, tr. 101, thì HCM gởi bài thơ nầy cho Trần Canh trước ngày 9-10-1950, nghĩa là HCM chúc mừng Trần Canh sau trận thắng Đông Khê ngày 18-9-1950, nhưng trước hai trận VM phục kích ở phía nam Đông Khê tháng 10-1950.
Đọc bài thơ nầy, ai cũng cảm thấy phảng phát âm hưởng bài thơ rất nổi tiếng của Vương Hàn đời Đường bên Trung Hoa là bài “Lương Châu từ”, được phiên âm như sau:
Lương Châu Từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Trần Trọng San dịch:
Bài Hát Lương Châu
Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu?
So sánh hai bài thơ tứ tuyệt “Tặng đồng chí Trần Canh” của HCM và “Bài hát Lương Châu” của Vương Hàn, cách nhau cả hơn một ngàn năm, mỗi bài thơ chỉ có 28 chữ, mà hai bài thơ chỉ khác nhau có bảy chữ. Đó là hai chữ đầu bài thơ (“bồ đào” thay bằng “hương tân” tức rượu champagne; và năm chữ câu cuối). Còn hai câu giữa hoàn toàn giống nhau, nghĩa là hết ba phần tư (3/4) bài thơ nguyên là của bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn.
Câu kết bài thơ HCM tặng Trần Canh trong tổng thể cả bốn câu của bài thơ, thật là vô duyên và lại lạc đề, vì ý nghĩa câu nầy chẳng ăn nhập gì đến ý nghĩa ba câu trên của bài thơ. Ba câu trên đang nói chuyện uống rượu trong một cái chén dạ quang sang trọng, phải vội vàng ra đi theo tiếng nhạc xuất quân, dù có say sưa ngoài chiến trường thi xin mọi người đừng cười... Bài thơ đang đến hồi sảng khoái, hào hùng thì HCM lại kết luận trật chìa một cách vô duyên, chẳng có hồn thơ, làm mất hứng thơ: “Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi”. (Chớ để một tên địch nào trở về). Đang nói chuyện xin đừng cười kẻ lỡ say ngoài chiến trường sao mà “chớ để một tên địch nào trở về”, thì thật là lãng nhách.
Trong khi đó, câu kết của Vương Hàn “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Từ xưa chinh chiến mấy người về), vừa hào hùng phù hợp với ý tưởng ba câu thơ trên, vừa là tâm trạng của những chiến binh xông pha trận mạc, biết rằng chiến tranh có những rủi ro không sao đoán trước được, nên từ xưa đến nay, những người ra đi xông pha chiến trận, thì mấy người trở về? Vì vậy mới xin đừng cười kẻ lỡ say trên đường ra trận. Lời thơ trong câu kết của Vương Hàn vang lên như là một điệu nhạc vừa hùng tráng và cũng vừa bi ai. (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.)
Trừ trường hợp Trần Canh là người dốt nát, không biết đọc chữ thì Trần Canh mới không phát hiện được HCM chép lại thơ Vương Hàn. Tuy nhiên, Trần Canh là người đã từng đủ điều kiện để theo học khóa 1 trường võ bị Hoàng Phố (Quảng Châu) tháng 5-1924, nổi tiếng học giỏi và được mệnh danh là một trong ba nhân tài của Hoàng Phố (Hoàng Phố tam kiệt), đã từng là hiệu trưởng trường Lục quân Bành Dương, đã lên tới cấp trung tướng, đang giữ chức tư lệnh quân khu Vân Nam kiêm chính ủy binh đoàn số 4, chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vân Nam. Chắc chắn Trần Canh có một trình độ học vấn căn bản và vốn là một quân nhân, Trần Canh phải biết bài thơ trứ danh về chiến tranh của Vương Hàn, nhất là hai câu chót: “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, hầu như là hai câu nằm lòng của giới nhà binh. Nay HCM lại “múa rìu qua mắt thợ”, lấy nguyên văn hai câu thơ của Vương Hàn làm quà tặng cho đồng hương con cháu của Vương Hàn. Trần Canh nghĩ sao về việc nầy?
Phải chăng đây là thơ “tập cổ” theo lối người xưa? Nếu tập cổ thì mượn một câu chứ không mượn 3/4 bài, và ít nhất khi in lại cũng ghi là thơ tập cổ từ thơ của ai? Hay đây là lối đánh lận con đen trí trá cố hửu của HCM? Nếu ai biết thì chối là thơ tập cổ, nếu ai không biết thì khoe là thơ của HCM và đăng vào sách, lưu truyền về sau. Ngày nay, chỉ cần chép nguyên văn một câu của người khác mà không đề xuất xứ, thì bị ghép vào tội đạo văn, ăn cắp thơ. Trong bài thơ nầy, HCM ăn cắp những ba phần tư (3/4) bài thơ của Vương Hàn.
Đúng là HCM, chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức nhà nước cộng sản Bắc Việt Nam, xứng đáng là chủ tịch trộm thơ liều lĩnh. Thế mà đảng CSVN luôn luôn kêu gọi học tập đạo đức HCM tức là học luôn cách trộm thơ hay trộm công trình sáng tác của người khác. Có thể do nhờ học tập đạo đức kiểu đó nên viên hiệu phó Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội đã đạo văn luận án tiến sĩ của người khác. Chỉ khác một điều là vào đầu năm nay (2014) có người tố cáo viên hiệu phó ăn cắp sở hữu trí tuệ của người khác, mà chẳng ai chịu tố cáo HCM đã trộm thơ của người khác. Nếu viên hiệu phó Đại Học Bách Khoa Hà Nội công khai thừa nhận đã trộm luận văn của người khác vì đã học theo gương đạo đức HCM, thì hy vọng có thể khỏi bị truy tố.
Chẳng những trộm thơ, mà HCM còn trộm tư tưởng của người khác. Ví dụ rõ nét nhất còn được các trường học ở Việt Nam hiện nay truyền tụng như là tư tưởng HCM, là câu mà HCM đã phát biểu trong cuộc học tập chính trị khoảng hơn 3,000 giáo viên ngày 13-9-1958 tại Hà Nội: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” (7). Câu nầy, HCM ăn cắp nguyên ý của Quản Trọng, tể tướng ngước Tề thời Xuân Thu (722-479 trước CN). Quản Trọng nói: “Nhất niên chi kế mạc ư thụ cốc; thập niên chi kế mạc ư thụ mộc; bách niên chi kế mạc ư thụ nhân.” (Kế một năm trồng lúa; kế mười năm trồng cây; kế trăm năm trồng người.) Nếu kể chuyện HCM đạo văn thì còn nhiều chuyện nữa, kể cả bản Tuyên ngôn ngày 2-9-1945 của HCM...
Lãnh tụ số một của CSVN còn như thế, thì trách chi hiệu phó Đại Học Bách Khoa Hà Nội trộm luận án và trách chi nền văn hóa giáo dục CSVN suy sụp và xuống cấp.
Toronto, 26-11-2014
______________________________________
Chú thích:
(1) Lê Hữu Mục trích dẫn, Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Toronto: Văn Bút Hải Ngoại, 1990, tt. 12-13.)
(2) Lê Hữu Mục, sđd. tr. 112. ("Ông già họ Lý" là người bị giam chung với HCM vào đầu thập niên 30 tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông.)
(3) Lê Hữu Mục, sđd. tr. 94.
(4) Tạp chí Hương Văn, California, số 5, tháng 2-1999, tt. 91-96.
(5) Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội in lần thứ hai, năm 2000, trang 101.
(6) Hà Nội: Nxb. Văn Học, 1990, tt. 39-40.
(7) Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958.
Khi nhà cầm quyền CSVN rao hàng “nguyên trạng”!
Lê Thiên (Danlambao) - "Hai tử huyệt của họ [CSVN] là những vấn đề Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan hoặc là Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là những tử huyệt của cộng sản và họ sợ nhất khi mà truyền thông phơi bày những sự thật đó ra công luận… Họ tìm mọi cách che đậy nhưng bây giờ thì bằng truyền thông tự do mạnh mẽ, tất cả những việc đó đã được phơi bày. Đó là điều họ sợ nhất” - (Trích phát biểu của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tại cuộc Hội thảo Chính trị giữa anh cùng Cù Huy Hà Vũ và nhà báo Mặc Lâm, biên tập viên của Đài Á Châu Tự Do ngày 21/11/2014 tại Washington, DC).
*
Vì sao “vấn đề Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan hoặc là Hoàng Sa, Trường Sa… là những tử huyệt của cộng sản” và là những điểm “làm họ sợ nhất”? Đơn giản vì đó là những chứng cớ hùng hồn làm nổi bật hành tung bán nước của tập đoàn CSVN. (Hành tung này chúng tôi đã bàn tới trước đây trong một bài viết).
Chia sẻ cái nhìn của Điếu Cày, chúng tôi lại mạn phép nói thêm về “nguyên trạng”, dù đó là đề tài chúng tôi đã trao đổi với độc giả ít nhất qua hai bài viết: Bài “Giữ nguyên hiện trạng” hay mưu đồ tạo phản: phản quốc, bán nước”, (ngày 24/10/2014) và bài “Nguyên trạng diễn ca họ Cộng nhà ta” (17/11/2014)!
Ts Trần Công Trục cảnh báo về nguyên trạng.
Chưa kể những tài liệu trước đây của các nhà nghiên cứu lịch sử, chúng tôi nhận thấy bài “Nguyên tắc ‘giữ nguyên hiện trạng’ ở Biển Đông cần được hiểu thế nào?” của Ts Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên Giới của Nhà nước CSVN vừa đưa lên báo điện tử Giáo Dục Việt Nam ngày 19/11/2014 là tài liệu đáng đọc.
Qua phân tích của Ts Trần Công Trục, chúng tôi càng nhận rõ mưu đồ bán nước mà nhà cầm quyền CSVN hiện nay dựa vào nguyên tắc “nguyên trạng” hòng bào chữa và che đậy âm mưu triều cống biển đảo của Việt Nam cho Tàu Cộng như thế nào. Chúng tôi tin độc giả sẽ không cho là thừa những điều đã bàn trong các bài trước giờ lại nhắc lại. Thiết nghĩ, nhắc lại như vậy sẽ làm sáng hơn những luận cứ và những “trăn trở” của Ts Trần Công Trục, một trí thức công bộc trung thành của Đảng và Nhà nước CSVN.
Ông Tiến sĩ Trục chỉ úp úp mở mở chứ chưa dám nêu đích danh những tên tội đồ bán nước là ai và hành động bán nước cụ thể của những tên tội đồ ấy ra sao.
Về hai chữ “nguyên trạng - status quo”, Ts Trần Công Trục diễn giải: “Status quo là một thuật ngữ tiếng La Tinh có nghĩa là hiện trạng hoặc giữ nguyên hiện trạng. Thuật ngữ có liên quan là status quo ante, có nghĩa "hiện trạng như trước”.( "the state in which before", means "the state of affairs that existed previously” (1)).
Lời giải thích trên cho chúng ta hiểu: Thực trạng trước thế nào, giờ vẫn vậy. Có nghĩa là những điểm đang tranh chấp phải giữ nguyên hiện trạng như trước cho đến khi có sự đồng thuận giữa các bên liên hệ, qua sự giám sát của trọng tài có thẩm quyền – tức trọng tài quốc tế! Những thỏa thuận ngầm giữa bên mạnh với bên yếu yếu, giữa nước lớn với nước nhỏ bằng những cuộc đi đêm dựa trên quan điểm ý thức hệ - giữa hai đảng CS anh em hay giữa phe xã hội chủ nghĩa anh em, thì đều là những thỏa thuận vô giá trị về mặt quốc gia dân tộc. Từ đó, chúng tôi cho rằng lời nhận định sau đây của Ts Trục là một lời cảnh báo khá nhẹ nhàng và phần nào mang tính bao che: “Khái niệm ‘hiện trạng’ phần lớn lại phụ thuộc nhiều vào mục đích mà các bên liên quan muốn ‘giữ nguyên’ có lợi cho mình. Chính vì vậy mà có nhiều thỏa thuận không có tính khả thi. Thậm chí, chúng còn là những cái cớ để các bên lợi dụng nhằm phục vụ cho những toan tính của mình.”
Sau lời cảnh báo trên, Ts Trần Công Trục kêu gọi: “Các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc và tính toán rất kỹ và thận trọng. Nếu không sẽ bị mắc bẫy, bị rơi vào những tình huống bất lợi khó có thể khắc phục được, nhất là trên phương diện pháp lý.”
Rõ ràng, do vị thế là thành phần của Đảng và Nhà nước CSVN, ông Trần Công Trục không dám nêu đích danh ai phải “cân nhắc”, ai phải “tính toán kỹ” và phải “thận trọng”. Phải chăng ông Trục chỉ dùng những hình dung từ nhẹ nhàng như trên đây hòng hạ giảm trách nhiệm của nhà cầm quyền Cộng sản đối với vấn đề trọng đại của đất nước? Lại nữa, ai đang “mắc [vào cái] bẫy” của giặc Tàu Cộng khiến đất nước “bị rơi vào những tình huống bất lợi khó có thể khắc phục”.
Xin hỏi ngài tiến sĩ: Trong sự kiện Hoàng Sa và Trường Sa, những tình huống nào là “những tình huống bất lợi khó có thể khắc phục” nếu không phải là tình huống Việt Nam mất biển mất đảo vào tay Trung Cộng???
Lời kêu gọi “giữ nguyên hiện trạng” của Nguyễn Tấn Dũng cũng như những phát biểu tương tự của Phùng Quang Thanh trước đó là câu trả lời.
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam với nguyên tắc nguyên trạng.
Ông Trục nêu ra rằng, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam “do các thế hệ người Việt Nam, trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, đã từng đổ mồ hôi, xương máu để dựng xây, phát triển mọi cơ sở cần thiết phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt nơi đây nên việc ngày nay ngư dân Việt Nam sinh sống và đánh bắt ở khu vực hai quần đảo này, cải tạo điều kiện sống, làm việc và tiếp tục thực thi chủ quyền hợp pháp của mình hoàn toàn không phải điều gì mới mà nó vẫn diễn ra cả mấy trăm năm qua.”
Từ thực thể trên, Ts Trục kết luận: “Các hoạt động bình thường và hợp pháp ấy không phải đối tượng điều chỉnh của khoản 2 Điều 5 DOC, [tức không phải là đối tượng của nguyên trạng]!
Ông Trần Công Trục giảng giải: “Trước đây Việt Nam có quyền hoạt động (kể cả xây dựng, tôn tạo, nâng cấp) thế nào thì nay vẫn được quyền làm như vậy. Trái lại, sau khi Trung Cộng dùng vũ lực cướp đoạt Hoàng Sa từ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa (1974), rồi đoạt Gạc Ma của Trường Sa (1988) thì kể từ hai thời điểm ấy, mọi hoạt động của Trung Cộng ở khu vực Hoàng Sa và Trường Sa đều vi phạm trắng trợn” nguyên tắc status quo.
Từ luận cứ trên, Ts Trần Công Trục nhận định rất chính xác rằng “Trung Quốc đã dùng vũ lực để đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, một phần quần đảo Trường Sa và hiện nay đang dốc sức biến các đảo, đá, bãi cạn này thành các căn cứ quân sự, đường băng sân bay, cơ sở dịch vụ hậu cần… là hoàn toàn chà đạp luật pháp quốc tế hiện hành”. Trong khi phía nhà cầm quyền CSVN mồm thì cứ lặp đi lặp lại điệp khúc “giữ nguyên hiện trạng”, nhưng trong hành động thì lại cứ thập thò thậm thụt đi hầu “đàn anh” nhận chỉ thị giao đất giao đảo Việt Nam cho họ.
Bằng chứng Dũng và Thanh tiếp tay Tàu Cộng.
Nhận định trên của Ts Trần Công Trục nhắc chúng ta nhớ Phùng Quang Thanh đã không thấy xấu hổ khi to họng gào: “Chúng tôi có trao đổi là giờ phải giữ nguyên hiện trạng. Trên biển Đông... không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm.”
Và rồi theo tin của Thông Tấn Xã CSVN Việt Nam ngày 14/11/2014, chính Nguyễn Tấn Dũng sau đó đã công khai chuẩn thuận và tuyên dương lời phát biểu của Phùng Quang Thanh. Tin của TTX/CSVN nêu rõ: “Vào lúc Bắc Kinh rốt ráo bồi đắp và mở rộng các bãi đá mà Trung Quốc chiếm đóng tại vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, tại các cuộc họp trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Miến Điện kết thúc ngày hôm qua, 13/11/2014, Thủ tướng Việt NamNguyễn Tấn Dũng đã liên tiếp kêu gọi các nước không làm thay đổi thực trạng các bãi đá, rạn san hô và bãi cát ngầm ở Biển Đông.”
Khi người ta (Trung Cộng) đã “rốt ráo” bồi đắp và mở rộng các bãi đá thì ông Thủ tướng CSVN lại nhẹ nhàng mơn trớn kiểu ngoại giao công thức, kêu gọi “các nước” không làm thay đổi thực trạng, khiến người dân Việt Nam không thể không nhớ lại lời Phùng Quang Thanh trâng tráo: “Hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng… và Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng. Đều là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng… Tuy nhiên, nguồn lực của ta còn có hạn nên việc xây dựng quy mô chưa lớn như Trung Quốc.”
Phùng Quang Thanh đánh đồng hoạt động xây dựng của Việt Nam với của Trung Cộng như vậy đó. Lại còn “bào chữa” cho Trung Cộng một cách ngu xuẩn rằng“nguồn lực của ta còn có hạn nên việc xây dựng quy mô chưa lớn như Trung Quốc.”
Những ai bênh vực PQT về lời phát biểu trên, xin hãy xem lại lời giảng giải của Ts Trần Công Trục nêu trên mà chúng tôi buộc phải nhắc lại ở đây: “Trước đây Việt Nam có quyền hoạt động [kể cả xây dựng, tôn tạo, nâng cấp] thế nào thì nay vẫnđược quyền làm như vậy. Trái lại, sau khi Trung Cộng dùng vũ lực cướp đoạt Hoàng Sa… thì kể từ hai thời điểm ấy, mọi hoạt động của Trung Cộng ở khu vực Hoàng Sa và Trường Sa đều vi phạm trắng trợn”
Vậy là ai “lơ là mất cảnh giác”, ai “tạo ra cơ hội cho Trung Quốc dễ dàng tính toán các bước đi tiếp theo” và ai “mơ hồ, có thể dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng” như Ts Trần Công Trục đã lưu ý?
Nguyên tắc “trước sau như một”.
Cũng trên báo Giáo Dục Việt Nam, người ta lại đọc thấy bài thứ hai của ông Trục, bài “Tiến sĩ Trần Công Trục nói rõ nguyên tắc ‘trước sau như một’ về Biển Đông”. Bài này cho chúng ta có một khái niệm về nguyên tắc “trước sau như một”, một nguyên tắc pháp lý có tên gọi là “Estoppel”, “quy tắc về bằng chứng, theo đó, một cá nhân không được phép phủ nhận sự thật về điều mà trước đây người này đã tuyên bố hoặc về những sự kiện mà người này cho là có thật.”
Về việc áp dụng nguyên tắc “trước sau như một”, Ts Trần Công Trục nhấn mạnh:“Trong luật quốc tế, đi đôi với chủ quyền là trách nhiệm thực thi chủ quyền và không cho nước khác làm điều mà họ cho là thực thi chủ quyền trên lãnh thổ của mình”.
Ở bài này, Ông Tiến sĩ nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ CSVN cảnh báo:“Áp dụng những nguyên tắc trên…, người Việt Nam, nhất là những cơ quanhoặc cá nhân người có thẩm quyền hay các cơ quan báo chí truyền thông cần phải thật sự thận trọng, cân nhắc khi phát biểu, tuyên bố có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia.”
Ông Trần Công Trục còn nhắn nhủ nhà cầm quyền trong nước: “Nếu phát biểu vì động cơ chính trị mà quên đi những nguyên tắc pháp lý thì sẽ dẫn đến nhữnghậu quả nghiêm trọng cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên phương diện pháp lý”.
Sau đó ông cũng lên án “quan điểm cho rằng không nên làm lớn chuyện Trung Quốc biến đá thành đảo ở 5 bãi đá ở Trường Sa, trong đó có đá Chữ Thập, để trở thành 1 căn cứ quân sự, vì chúng ta cũng xây dựng và mở rộng ở Trường Sa, vì cả làng cùng xây dựng là cực kỳ nguy hiểm và không thể chấp nhận.” Đây là quả đấm trực diện nhắm thẳng vào cả Phùng Quang Thanh lẫn Nguyễn Tấn Dũng là người đại diện đích thực đảng quyền trên cả nước.
Những con két Việt Nam do Trung Cộng nuôi dạy.
Theo tin báo chí lề đảng trong nước, trả lời chất vấn tại Quốc Hội CSVN, Nguyễn Tấn Dũng, trong tư cách Thủ tướng, đã xác định: “Việt Nam –Trung Quốc dù mưa nắng, hay bão lũ vẫn mãi là láng giềng.” Ông còn nói thêm: “Chúng ta hết sức mong muốn Việt Nam-Trung Quốc chân thành hợp tác để gìn giữ hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, cùng có lợi, để thực hiện thực chất, hiệu quả phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, đem lại lợi ích cho cả hai bên.”
Ý kiến của Nguyễn Tấn Dũng trên đây thực ra chẳng có gì là mới mẻ cả. Nó chỉ là sự lặp lại hầu như nguyên văn lời chỉ bảo của Ông Phạm Trường Long Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Cộng đưa ra cho Phùng Quang Thanh trong cuộc hội kiến của đoàn quân sự cấp cao CSVN với phía Trung Cộng ngày 18/10/2014. Ông Phạm Trường Long nói: “Láng giềng là không thể dời đi, hai nước Trung-Việt chung sống hữu nghị, xử lý ổn thỏa bất đồng, cùng phát triển phù hợp với lợi ích chung của hai nước.”
Báo Trung Cộng bấy giờ cũng tường thuật rằng Phùng Quang Thanh đã chấp nhận 3 phương hướng mà phía Trung Cộng đưa ra cho phía CSVN, rằng hai bên phảidựa trên phương châm 16 chữ ‘ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện’ và tinh thần 4 tốt ‘láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt’, ngõ hầu “hai bên ‘đi cùng một hướng’, theo chỉ thị màThường Vạn Toàn, Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Trung Cộng đưa ra trong cuộc gặp gỡ trước đó giữa hai đoàn.
Nguyên tắc 6 chữ của Nguyễn Tấn Dũng.
Liền sau cam kết thực hiện nghiêm túc “phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt”, Nguyễn Tấn Dũng chế thêm một nguyên tắc nữa, nguyên tắc “6 chữ, đó là vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Đại biểu Lê Nam, Đoàn Thanh Hóa đặt câu hỏi: “Ngay khi giàn khoan HD 981 chưa rút, Trung Quốc đã thực hiện mạnh mẽ xây dựng các đảo, xây dựng sân bay, biến đảo đá chìm thành lãnh thổ trên các đạo Gạc Ma, Phú Lâm, Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc cưỡng đoạt. Đó là kế sách không đánh mà thắng nhằm độc chiếm biển Đông. Cử tri cả nước đặc biệt quan tâm đến tình hình trên, mong muốn Thủ tướng cho biết kế sách của Chính phủ sẽ như thế nào để bảo vệ trọn vẹn chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc?"
Nguyễn Tấn Dũng trả lời có vẻ ngạo mạn khinh thường ý kiến của ông Lê Nam, rằng: “Ý kiến chất vấn của đại biểu Nam thì tất cả chúng ta, đồng chí, đồng bào cả nước đều biết.” Chuyện ấy cả nước ai mà chẳng biết, có gì mà ầm ĩ? Dũng còn nhắc lại quan điểm “các bên giữ nguyên hiện trạng, không làm phức tạp thêm...”Còn “việc Trung Quốc bồi lấp biển nếu theo thông tin báo chí chúng ta cũng đã nêu…” hết rồi. Nghĩa là, theo Nguyễn Tấn Dũng, mọi điều trên, ai mà chẳng biết, báo chí nêu ra cũng là thừa, vì đảng của Dũng đã từng nêu ra nhiều lần rồi, phải không? Tuy nhiên, trong thực tế, Dũng và đảng của Dũng chỉ nêu bằng hàng loạt chữ nghĩa công thức mơn trớn bọn xâm lăng bắc phương mà thôi! Một mặt chơi trò “võ mồm” để lừa phỉnh người dân trong nước, một mặt ngầm thúc đẩy người anh em “láng giềng không thể dời đi” nhưng cứ lấn thêm, nhất là lấn đảo, lấn biển.
Thế nên, trong khi tại hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Đà Nẵng ngày 17-18/11/2014, Cựu Phó Đô đốc Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản Joji Koda buộc lòng phải lên tiếng cảnh cáo như trình bày sau đây
Những lời cảnh cáo từ bên ngoài.
Cựu Phó Đô đốc Nhật Bản Joji Koda kêu gọi các quốc gia hãy chung tay ngăn chặn Trung Quốc thay đổi nguyên trạng trên Biển Đông. Báo chí Việt Nam ghi nhận: “Dẫn thông tin từ truyền thông Trung Quốc, cựu Phó Đô đốc Joji Koda cho hay, tháng 10/2014, Trung Quốc đã hoàn tất việc cải tạo đường băng dài 2.400m trên đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa (nằm cách Tam Á, đảo Hải Nam, Trung Quốc khoảng 700km về phía Đông Nam và cách Đà Nẵng, Việt Nam 440km về phía Đông), cho phép tiếp nhận các máy bay vận tải quân sự và máy bay do thám cỡ lớn”.
Đối với quần đảo Trường Sa, “ông Joji Koda cho hay, Trung Quốc đã bắt đầu nỗ lực đầy tham vọng là cải tạo đầm phá lớn ở Đá Gạc Ma mà họ đã chiếm đoạt bằng vũ lực từ Việt Nam vào năm 1988... Hiện Trung Quốc đang tiến hành hoạt động cải tạo đất ở nửa phía Đông của đầm phá và xây dựng một đường băng dài 2.500m có khả năng tiếp nhận máy bay phản lực cùng một số bến cảng, cầu tàu để tiếp đón tàu trọng tải lớn”. (Trung Quốc thay đổi nguyên trạng trên Biển Đông nhằm mưu đồ gì?).
Thời điểm Trung Cộng hoàn tất việc cải tạo đường băng dài 2.400m trên đảo Phú Lâm vào tháng 10/2014, và xây dựng một đường băng dài 2.500m Đá Gạc Ma gần đây là thời gian mà Phùng Quang Thanh cùng đoàn quân sự cấp cao lớn nhất nước đang có mặt ở Tàu. Tại đó, PQT thú nhận khi Thanh nêu vấn đề “giữ nguyên hiện trạng”, thì phía Tàu Cộng “nói chung hứa thì không hứa”!!!! Đấy Trung Cộng ngạo nghễ cười vào mũi CSVN đó! Hứa cái gì mà hứa! Láo!
Và quả như vậy. Trung Công không nói mà làm. Báo Việt Nam ghi nhận: “IHS Janes's, một tạp chí về quốc phòng, hôm 20/11 đưa tin Bắc Kinh đang tiến hành xây dựng đảo nhân tạo trên bãi đá Chữ Thập, dài ít nhất 3.000 mét, rộng khoảng 200 đến 300 mét. Chuyên gia đánh giá, đảo nhân tạo này đủ lớn để xây dựng sân bay.”
Lại nữa, theo VNExpress ngày 24/11/2014 (Trung Quốc xây đảo ở Trường Sa 'để làm căn cứ radar'), một quan chức cấp cao của quân đội Trung Quốc bất ngờ tiết lộ trước báo chí quốc tế về lý do bồi đắp đảo ở Trường Sa, là để hỗ trợ hoạt động của radar và thu thập tin tình báo. (Nguy hiểm chưa?) Quan chức đó là Jin Zhirui, sĩ quan cao cấp thuộc Tổng bộ quân chủng Không quân Trung Quốc, đã phát biểu tại Diễn đàn Xiangshan, một diễn đàn đối thoại về các vấn đề an ninh quốc gia của Trung Cộng. Trung Cộng làm và nói đó. Họ có sợ gì cái thùng rỗng của CSVN?
Trong khi đó, phía Mỹ đã theo dõi việc “cải tạo mở rộng bãi đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa là một trong số những dự án mà Trung Quốc đang theo đuổi, trước tiên là để có thể xây dựng một đường băng”, AFP dẫn lời trung tá Jeffrey Pool, người phát ngôn quân đội Mỹ, cho biết như vậy.
Theo Trung tá Pool, "có vẻ như đó chính là việc họ đang hướng tới. Một bến cảng cũng đã được thiết lập ở phía đông bãi đá. Nó đủ lớn để đón các tàu tiếp tế và tàu chiến hải quân.”
Vị sĩ quan phát ngôn của Quân đội Hoa Kỳ lên tiếng: "Chúng tôi kêu gọi Trung Quốc dừng chương trình cải tạo đất và tham gia vào những sáng kiến ngoại giao để thúc đẩy tất cả các bên kiềm chế trong loại hoạt động này".
Qua những thông tin và những tiết lộ nêu trên, chúng ta nhận ra ngay hành động ngang ngược của Trung Cộng trên Biển Đông, nhất là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Gạc Ma) mà chúng đã cưỡng chiếm của Việt Nam. Trong khi đó, các quan chức đứng đầu vận mệnh đất nước lại vẫn ỡm ờ nước đôi, ngôn hành tương phản, để mặc Trung Cộng lộng hành. Điều đáng chú ý đặc biệt ở đây là gần đây, danh xưng Hoàng Sa không còn thấy xuất hiện nữa trong phát biểu của các nhà “hoạch định chính sách” Việt Nam, tức là nhà cầm quyền CSVN!
Kết luận.
Một tín hiệu bất thường đầy nguy hiểm cho vận mệnh đầy bất trắc của quê hương Việt Nam mà thủ phạm chính là đám CS cầm quyền đất nước hôm nay. Họ công khai và ngang nhiên đặt vị thế cầm quyền của đảng “anh em” lên trên sự sống còn của Tổ Quốc, đặt việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội lên trên việc tôn trọng sinh mạng của toàn dân tộc! Đến nỗi báo Giáo Dục Việt Nam ngày 19/10/2014 đã đăng tải lại toàn bộ nội dung báo chí Trung Cộng phản ánh chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng, trong đó ghi lại lời “Phùng Quang Thanh nói, Đảng và Quân đội Việt Nam rất coi trọng quan hệ Việt-Trung, quý trọng tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung”, và đặc biệt “cung cấp bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản hai nước, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thấy chưa? CSVN đâu coi việc bảo đảm sự tồn vong của đất nước là trách nhiệm trên hết và trước nhất của họ, đâu có coi việc củng cố chủ quyền của quốc gia dân tộc là chính yếu, đâu có coi việc bảo vệ biên thùy, lãnh thổ, lãnh hải là nhiệm vụ hàng đầu của cả nước, huống hồ là của kẻ đang nắm vận mạng đất nước? Chỉ một lời nói trên đã đủ để nhận chân tâm địa của nhà cầm quyền CSVN đối với dân tộc và đất nước!
27/11/2014
________________________________________
(1) Phần chua tiếng La Tinh và Anh là của chính Ts Trần Công Trục.