Friday, May 23, 2014
Đối đầu TQ-VN ở Biển Ðông thử thách chính sách xoay trục Á Châu của Mỹ
Tàu Tuần duyên Trung Quốc số hiệu 3411 (trái) và tàu Tuần duyên Việt Nam số hiệu 4032 trong khu vực Biển Đông mà cả hai đều tuyên bố thuộc lãnh hải của mình.
Scott Stearns
23.05.2014
BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ — Vụ giằng co về một giàn khoan dầu ở vùng biển có tranh chấp ngoài khơi Việt Nam đang trắc nghiệm cái gọi là chính sách “Xoay trục” của chính quyền Obama về các nguồn lực quân sự và ngoại giao qua châu Á.
Việt Nam nói một giàn khoan dầu của Trung Quốc trong vùng biển có tranh chấp đe dọa đến quyền tự do hàng hải. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố:
“Việc hạ đặt giàn khoan bất hợp pháp đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định an ninh hàng hải và tự do hàng hải ở Biển Ðông.”
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói chính Việt Nam đang làm tăng thêm căng thẳng qua việc nêu thắc mắc về chủ quyền của Trung Quốc.
Ông Hồng nói: “Họ đang bóp méo các sự kiện, làm cho sai đúng lẫn lộn trên sân khấu thế giới, bôi nhọ Trung Quốc và đưa ra những lời cáo buộc vô lý.”
Vụ giằng co nằm trong khuôn khổ nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy lui sự hiện diện nhiều hơn của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, theo nhận xét của giáo sư Hillary Mann Leverett của trường American University:
“Cuộc giằng co thực sự đưa Việt Nam ra tiền trường của một cuộc chiến, cơ bản là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, về việc ai sẽ có khả năng tạo ảnh hưởng ngày nay và dài hạn trong khu vực hết sức quan trọng của thế giới.”
Ðó là một thông điệp nhắm vào tất cả những đối thủ tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh, theo giáo sư Carl Thayer của trường Ðại học New South Wales:
“Các quốc gia chủ chốt trong ASEAN, không riêng gì Philippines và Việt Nam, sẽ hết sức quan ngại, bởi vì không phải chỉ là vấn đề một giàn khoan, mà là sức mạnh quân sự kèm theo, và mỗi quốc gia sẽ cảm thấy yếu thế trước Trung Quốc.”
Chủ tịch Tập Cận Bình nói Trung Quốc luôn luôn cố gắng giải quyết một cách êm thắm các vấn đề chủ quyền hàng hải và nêu thắc mắc về các quốc gia Á châu mưu tìm liên minh chống lại các nước láng giềng. Ông Tập nói:
“Các nước củng cố liên minh quân sự chống lại một nước thứ ba không có lợi ích cho an ninh khu vực.”
Bắc Kinh đang tìm cách phá hoại cái gọi là chính sách xoay trục của Hoa Kỳ dựa vào điều mà giáo sư Leverett nói là một giả thuyết cho rằng Washington sẽ không tranh chấp. Giáo sư Leverett cho biết:
“Khái niệm đối với Trung Quốc thực sự là dành cho Hoa Kỳ sự lựa chọn mà Hoa Kỳ không thể thắng được. Hoặc họ phải chiến đấu với Trung Quốc về những hòn đảo mà họ không quan tâm hoặc họ sẽ không hậu thuẫn cho các đồng minh của mình. Điều này gửi đi một tín hiệu mạnh cho các đồng minh đó là không thể dựa vào Hoa Kỳ, chính sách xoay trục không có thực chất, và láng giềng duy nhất mà họ phải đối phó ngày nay và mãi mãi là Trung Quốc.”
Washington nói sẽ ủng hộ hành động pháp lý của Hà Nội chống lại giàn khoan trong khuôn khổ gọi là “lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ trong việc duy trì hòa bình và ổn định” ở Biển Ðông.
http://www.voatiengviet.com/content/cuoc-giang-co-giua-trung-quoc-viet-nam-o-bien-dong-thu-thach-chinh-sach-xoay-truc-a-chau-cua-my/1921384.html
Tư lệnh hải quân Mỹ cảnh cáo TQ trên Biển Đông
Trước sự ngang ngược của TQ, Mỹ sẵn sàng chào đón quan hệ chiến lược với Việt Nam.
Ngày 23/5, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ đã lên tiếng cảnh báo Trung Quốc rằng chỉ cần một tính toán sai lầm trên Biển Đông có thể châm ngòi cho một cuộc xung đột lớn hơn trong bối cảnh Trung Quốc đang ngày càng hung hăng, ngang ngược trong vùng biển Việt Nam.
Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Thái Bình Dương của quân đội Mỹ cũng hối thúc các quốc gia ASEAN và Trung Quốc xúc tiến việc ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm ngăn chặn những tranh chấp lãnh thổ biến thành xung đột vũ trang có thể đe dọa đến hòa bình, ổn định trong khu vực.
Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ
Các nhà ngoại giao ASEAN đã nhiều lần cáo buộc Trung Quốc cố tình trì hoãn việc đàm phàn COC trong khi nước này tìm cách tăng cường việc kiểm soát các vùng biển tranh chấp.
Tuyên bố trên của Đô đốc Locklear được đưa ra bên lề Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á, nơi ông cùng nhiều quan chức khác thảo luận về các nguy cơ an ninh đối với sự phát triển kinh tế trong khu vực.
Ông Locklear cho rằng cùng với quá trình phát triển kinh tế, châu Á-Thái Bình Dương cũng đã trở thành khu vực quân sự hóa mạnh nhất trên thế giới, là nơi tập trung một số lực lượng hải quân và quân đội lớn nhất. Tuy vậy, các quốc gia trong khu vực vẫn chưa xây dựng được một cơ chế để quản lý những nguy cơ an ninh có thể đe dọa đến sự phát triển kinh tế.
Đô đốc Locklear tỏ ra lo ngại về cách hành xử hung hăng, ngang ngược của Trung Quốc trên vùng biển Việt Nam, đồng thời hối thúc các bên giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Vị đô đốc này nói với các phóng viên: “Tôi có những quan ngại rất sâu sắc. Nguy cơ xảy ra tính toán sai lầm là rất cao và chúng tôi kêu gọi các bên hết sức kiềm chế.”
Cũng trong hội nghị này, Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Laura del Rosario tuyên bố dự thảo COC đã bị trì hoãn nhiều lần đến mức nó có thể bị lấn át bởi những diễn biến trên Biển Đông, nơi những tranh chấp lãnh thổ ngày càng nóng bỏng và phức tạp hơn trong vài năm gần đây.
Lực lượng hùng hậu của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương
Bà del Rosario cho rằng các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc đã không hành động đủ nhanh và giờ đây đã có rất nhiều thứ thay đổi.
Năm ngoái, Philippines đã đệ đơn kiện Trung Quốc lên tòa án quốc tế tại La Hay, tuy nhiên Trung Quốc kiên quyết không tham dự vụ kiện này bất chấp áp lực của cộng đồng quốc tế.
Ngang ngược hơn, Trung Quốc còn cho kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam, một hành động đi ngược lại với thông lệ và pháp luật quốc tế, khiến dư luận thế giới bất bình và lên án mạnh mẽ.
Phát biểu tại Manila, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam xem xét mọi phương án để bảo vệ mình, trong đó có cả phương án pháp lý theo luật pháp quốc tế trước những hành động ngang ngược của Trung Quốc. Thủ tướng cũng tuyên bố đanh thép rằng Việt Nam sẽ có hành động tự vệ nếu bị tấn công.
Nhiều chuyên gia phân tích trong khu vực cho rằng những quốc gia nhỏ hơn trong khu vực bị Trung Quốc hăm dọa bằng những hành vi ngang ngược có thể sẽ tăng cường mối quan hệ an ninh chặt chẽ hơn với Mỹ.
Khi được hỏi về điều này, Đô đốc Locklear nói rằng Mỹ đang thúc đẩy quan hệ gắn bó hơn với các nước trong khu vực và sẵn sàng chào đón quan hệ chiến lược với Việt Nam. Ông nói: “Chúng tôi tìm cách tận dụng mọi cơ hội để tăng cường quan hệ đối tác với các quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam.”
Thứ bẩy, 24/05/2014, 08:56 (GMT+7)
Trí Dũng (Theo FoxNews)
Công nhận tính phi pháp của công hàm 1958 rồi sao nữa?
Nguyên Anh (Danlambao) - Chương trình thời sự hôm nay nổi bật với việc tuyên bố cứng rắn của thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng và sau đó là cuộc họp báo của các giới được gọi là trí thức VN trong đó việc phản ứng với công hàm 1958 của cố thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng, xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý hành chánh của chính phủ VNCH. Đây là lần đầu tiên những người CS đã dám nhìn nhận vào sự thật lướt qua nổi sợ xét lại và bệnh sùng bái lãnh tụ, một điều rất tốt trong thời điểm hiện nay.
Theo những gì mà nhà cầm quyền CSVN tuyên bố trên truyền hình trước mặt 90 triệu người dân ngoài tái tuyên bố chính thể VNCH là một chính phủ hợp pháp của miền Nam VN thì điều đó cũng có nghĩa là công hàm 1958 của PVĐ là vô giá trị về mặt pháp lý cũng như trên trường quốc tế!
Nhưng nếu chỉ tuyên bố như vậy thì cái gì sẽ tiếp diễn với giấc mộng bành trướng của TC?
Chủ nghĩa bá quyền của TC không thể nào dập tắt, người dân VN đừng quên là sau khi dạy cho VN bài học thứ nhất tại hội nghị Thành Đô, năm 1990 TBT Nguyễn văn Linh đã đi đêm và ký giấy nhượng vùng đất địa đầu của Tổ quốc cho giặc với việc xóa bỏ Ải Nam Quan, một phần thác Bản Giốc, di dời lùi vào nội địa hàng chục cây số dẫn đến nước VN mất hàng chục nghìn cây số vuông.
Thế nhưng dã tâm chiếm đoạt nước Việt vẫn bừng cháy trong tim bọn chúng. Vì sao?! Cũng cần nhắc lại Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã phải chịu nhiều năm tù ở vì đã dám bạch hóa việc bán nước của giới chóp bu CSVN.
Câu trả lời là vì giới lãnh đạo đảng CSVN quá hèn hạ và khiếp nhược điều đó cũng trông thấy trong diễn văn mới đây của Nguyễn Tấn Dũng: VN sẽ không dùng biện pháp vũ lực ngoại trừ bị ép buộc!
Nếu chọn giải pháp phủ nhận công hàm 1958 của PVĐ là vô giá trị đảng CSVN sẽ phải đối mặt với một vấn đề lớn hơn đó là con số quân viện cho VN trong những năm tháng chiến tranh mà tờ Hoàn Cầu thời báo hôm nay công bố đã là 870 tỷ đô la (chưa kiểm chứng). Điều đó có thể dễ dàng đánh đổi bằng đảng CSVN phải dâng hết đất nước hay một nữa miền Bắc cho giặc mà không thể nào chối cãi khi những hồ sơ, công văn, khế ước, hiệp định bọn giặc đang nắm trong tay, tất nhiên bọn chúng nói có cơ sở chứ không phải hàm hồ!
Như một ván cờ đô mi nô bị triệt buộc!
Đứng trước vấn nạn này đảng sẽ hành động như thế nào, đặt đảng lên trên Dân Tộc như từng đã làm mấy chục năm nay hay sẽ chọn Dân tộc là tối ưu?
Người dân cũng trông thấy thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sau khi đi Phi luật Tân hội đàm cùng Tổng thống bên ấy đã có những phát ngôn cứng rắn trái với thái độ trước đây của ông nhưng liệu TC có sợ VN với một thủ tướng cứng rắn hay không?
Chắc chắn là không!
Vì bọn chúng biết tỏng con nài tẩy VN có những gì khi tham gia chiến tranh, hơn nữa quan trọng nhất là nước VN không còn kinh phí để theo đuổi một cuộc chiến dài hơi.
Đứng trước hiểm họa xăm lăng nước VN phải làm gì?
Đảng CSVN phải nhận thức được những sai lầm trong quá khứ khi khởi động một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn dưới mỹ danh: đánh Mỹ cứu nước mà phần thiệt hại ngày nay của VN quá nặng nề và tự giải thể trao trả lại chính quyền về tay nhân dân.
Nhiều ý kiến cho rằng cần phải liên minh với Hoa kỳ mới có thể bảo vệ được quốc gia Dân tộc, điều đó hoàn toàn đúng đắn nhưng đó mới chỉ là ước muốn của VN mà phía Mỹ chưa hề có động thái nào.
Đảng CSVN nên hiểu rằng nước Mỹ là một quốc gia pháp luật nghiêm minh mà cho dù Tổng Thống của họ có mong muốn cũng không thể nào giúp VN được khi hai viện lập pháp là Thượng và Hạ nghị viện Hoa Kỳ phủ quyết, cứ nhìn vào chuyến công du năm ngoái của Nguyễn Tấn Dũng trong đó VN mong muốn mua các khí tài kỹ thuật nhằm thay thế khối quân cụ của VNCH bỏ lại đã bị Mỹ từ chối mà làm bài học:
Nước Mỹ không bao giờ là đồng minh, có liên minh với một quốc gia CS, nếu muốn điều đó VN phải thay đổi thể chế từ một chế độ độc tài toàn trị trở thành một quốc gia Dân chủ đa nguyên với việc tôn trọng các giá trị con người của người dân của mình.
Như vậy bước đi cần có hiện nay gọi theo cách gọi CS là tự chuyển hóa.
Nếu đảng không dám công khai từ bỏ chủ nghĩa của mình thì các đảng viên hãy tự chuyển hóa, tự xin ra khỏi đảng, tự bỏ đảng cho đến khi đảng không còn tín đồ.
Toàn dân hãy nhìn thấy cái chủ nghĩa Mác Lê là một thứ chủ nghĩa chỉ dùng để mị dân trong thế kỷ 20, họ dùng nó để lợi dụng người dân nổi dậy chiếm đoạt quyền điều hành quốc gia dẫn đưa dân tộc tới đói nghèo lạc hậu mà các quốc gia khác đi trước VN nhiều năm đã trông thấy và mạnh dạn từ bỏ, từ Đông Đức cho đến Ba Lan, Tiệp Khắc hay chính tại cái quê hương của Lê Nin là nước Nga cũng không ngoại lệ.
Định hướng XHCN là gì khi chủ nghĩa CS không cho phép quyền tư hữu của người dân, chỉ nội hai chữ CS cũng nói lên cộng tất cả tài sản về một mối và chia đều cho người dân nhưng trong thực tế đó là điều không tưởng!
Nước VN với những bất cập không thể nào giải quyết cần phải thay đổi, chúng ta phải là một quốc gia đa đảng phái và đi theo con đường kinh tế tư bản chủ nghĩa mới có thể làm cho dân giàu nước mạnh, chúng ta không thể lấy một lý thuyết đã lỗi thời làm kim chỉ nam cho ngày hôm nay.
Đảng hãy tự biết vị trí của mình ngày trong hiện tại, xin lỗi Dân tộc, tự giải tán và trao trả lại cho những người Cộng Hòa, chính họ mới có thể dẫn đưa Dân tộc thoát khỏi hiểm họa xâm lăng này vì họ có chính danh để phủ quyết những đòi hỏi vô lý của TC.
Với số lượng hơn 4 triệu người gốc Việt sống khắp nơi trên thế giới trong đó đa số là quân, dân, cán, chính của hai nền Cộng Hòa, những con người đó xem trọng Tổ quốc-Danh dự-Trách nhiệm và dù có gần đất xa trời các lão tướng, các binh sĩ của một chế độ Tự do Dân chủ vẫn còn tình yêu nước nồng nàn trong tim, họ sẽ về để cùng khối Dân Tộc 90 triệu người chọn giải pháp đánh đuổi bọn xâm lăng khỏi bờ cõi, sẽ về để xây dựng lại một đất nước hoang tàn thành một quốc gia dân chủ và giàu mạnh.
Chính thể Việt Nam Cộng Hòa mới là chính thể có đủ tư cách liên minh với Hoa Kỳ trong quá khứ cũng như trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng hôm nay.
Chỉ với một điều kiện tiên quyết: đảng phải ra đi vĩnh viễn khỏi VN!
Không có giải pháp hòa hợp, hòa giải nào cả!
Đó là điều bắt buộc phải đến nếu muốn chống TC.
Carl Thayer: 'Các cơn bão sẽ cho Trung Quốc cơ hội xuống thang'
TN- Nhà phân tích hàng đầu về Biển Đông đánh giá việc triển khai giàn khoan 981 của Trung Quốc phải đối mặt với chi phí khổng lồ, thời tiết khắc nghiệt, và những cơn bão có thể cho Trung Quốc một lý do để rút đi.
GS Carl Thayer. Ảnh: CSIS
Trao đổi với VnExpress, Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia nổi tiếng về Biển Đông, từng công tác tại Học viện Quốc phòng Australia, bình luận rằng việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển thuộc thềm lục địa của Việt Nam ở Hoàng Sa là việc chưa từng có tiền lệ.
Tuy nhiên việc duy trì giàn khoan cùng hàng trăm tàu hộ tống là việc vô cùng tốn kém. Ông Thayer dự đoán có vẻ như Trung Quốc sẽ rút giàn khoan dầu về nước trong hoặc trước ngày 15/8 tới để tránh mùa bão lớn trên biển.
"Các cơn bão sẽ đem lại cơ hội cho Trung Quốc xuống thang", ông nhận định.
Thayer cho rằng nếu Trung Quốc thực sự muốn khoan dầu, họ sẽ đánh dấu vị trí giếng dầu sau khi giàn khoan khổng lồ này được đưa đi. Đồng thời Trung Quốc sẽ vẫn duy trì các tàu hải cảnh ở khu vực được cho là có dầu.
Về kịch bản tiếp theo, ông Thayer dự đoán Trung Quốc có thể sẽ cân nhắc lập một vùng nhận dạng phòng không giới hạn phía trên đảo Hải Nam và quần đảo Trường Sa nhằm thiết lập thẩm quyền của cái gọi là thành phố Tam Sa.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã đề cập và có thể sử dụng các biện pháp pháp lý để đấu tranh với Trung Quốc. Philippines cũng từng ở trong tình huống tương tự và đã nộp hồ sơ lên Tòa án trọng tài quốc tế, nhằm đề nghị tòa tuyên bố yêu sách chủ quyền đường 9 đoạn của Trung Quốc là không hợp pháp. Ông Thayer cho rằng Việt Nam có thể hưởng lợi từ bất kỳ phán quyết nào có lợi cho Philippines.
"Vụ kiện của Philippines rất khôn khéo, không trực tiếp thách thức Trung Quốc mà đưa ra câu hỏi về những quyền của Philippines theo luật quốc tế. Nói cách khác, Philippines xem xét mình có quyền với vùng biển thuộc lãnh thổ, khu vực chồng lấn, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế hay không", Thayer phân tích.
Philippines cũng đưa yêu cầu về xác định tình trạng pháp lý của những thực thể (features) bị Trung Quốc chiếm giữ, là những quần đảo, đá hoặc thực thể nổi khi thủy triều xuống thấp theo luật quốc tế. Nếu bất kỳ thực thể nào không phải là quần đảo hay đá theo luật quốc tế, chúng hình thành nên phần thềm lục địa của Philippines, Trung Quốc không thể tuyên bố chủ quyền với những thực thể đó.
"Do vậy, tôi nghĩ lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam lúc này là ủng hộ Philippines", ông nói.
Về những tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 24 tại Myanmar và Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á 2014 tại Philippines, ông Thayer nhận xét ông Nguyễn Tấn Dũng đã có một loạt bài phát biểu đanh thép, cho thấy rõ những hành động của Trung Quốc là mối đe dọa lớn cho hòa bình và an ninh trong khu vực.
"Việt Nam phải tiếp tục đưa vụ việc này ra cộng đồng quốc tế, nếu không sẽ đứng trước nguy cơ bị cô lập. Việt Nam có thế đứng vững chắc, với điều kiện không bị khiêu khích bởi Trung Quốc".
Ông Thayer nhấn mạnh vai trò quan trọng của một số nước trong ASEAN như Indonesia, Malaysia và Singapore. Các nước này đều lo lắng trước hành động hung hăng quyết đoán của Trung Quốc và thể hiện sự ủng hộ về chính trị và ngoại giao với Việt Nam và Philippines. Tuy nhiên, ông cũng nhận xét rằng họ lại không muốn ASEAN can dự trực tiếp vào xung đột với Trung Quốc.
"Việt Nam và Philippines là hai nước ở tiền tuyến trong số các nước có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông", chuyên gia nói. "Sự hợp tác giữa Việt Nam và Philippines mới đây là một bước đi rất tích cực".
Thứ bảy, 24/5/2014 12:06
VEXP
GS Carl Thayer. Ảnh: CSIS
Trao đổi với VnExpress, Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia nổi tiếng về Biển Đông, từng công tác tại Học viện Quốc phòng Australia, bình luận rằng việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển thuộc thềm lục địa của Việt Nam ở Hoàng Sa là việc chưa từng có tiền lệ.
Tuy nhiên việc duy trì giàn khoan cùng hàng trăm tàu hộ tống là việc vô cùng tốn kém. Ông Thayer dự đoán có vẻ như Trung Quốc sẽ rút giàn khoan dầu về nước trong hoặc trước ngày 15/8 tới để tránh mùa bão lớn trên biển.
"Các cơn bão sẽ đem lại cơ hội cho Trung Quốc xuống thang", ông nhận định.
Thayer cho rằng nếu Trung Quốc thực sự muốn khoan dầu, họ sẽ đánh dấu vị trí giếng dầu sau khi giàn khoan khổng lồ này được đưa đi. Đồng thời Trung Quốc sẽ vẫn duy trì các tàu hải cảnh ở khu vực được cho là có dầu.
Về kịch bản tiếp theo, ông Thayer dự đoán Trung Quốc có thể sẽ cân nhắc lập một vùng nhận dạng phòng không giới hạn phía trên đảo Hải Nam và quần đảo Trường Sa nhằm thiết lập thẩm quyền của cái gọi là thành phố Tam Sa.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã đề cập và có thể sử dụng các biện pháp pháp lý để đấu tranh với Trung Quốc. Philippines cũng từng ở trong tình huống tương tự và đã nộp hồ sơ lên Tòa án trọng tài quốc tế, nhằm đề nghị tòa tuyên bố yêu sách chủ quyền đường 9 đoạn của Trung Quốc là không hợp pháp. Ông Thayer cho rằng Việt Nam có thể hưởng lợi từ bất kỳ phán quyết nào có lợi cho Philippines.
"Vụ kiện của Philippines rất khôn khéo, không trực tiếp thách thức Trung Quốc mà đưa ra câu hỏi về những quyền của Philippines theo luật quốc tế. Nói cách khác, Philippines xem xét mình có quyền với vùng biển thuộc lãnh thổ, khu vực chồng lấn, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế hay không", Thayer phân tích.
Philippines cũng đưa yêu cầu về xác định tình trạng pháp lý của những thực thể (features) bị Trung Quốc chiếm giữ, là những quần đảo, đá hoặc thực thể nổi khi thủy triều xuống thấp theo luật quốc tế. Nếu bất kỳ thực thể nào không phải là quần đảo hay đá theo luật quốc tế, chúng hình thành nên phần thềm lục địa của Philippines, Trung Quốc không thể tuyên bố chủ quyền với những thực thể đó.
"Do vậy, tôi nghĩ lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam lúc này là ủng hộ Philippines", ông nói.
Về những tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 24 tại Myanmar và Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á 2014 tại Philippines, ông Thayer nhận xét ông Nguyễn Tấn Dũng đã có một loạt bài phát biểu đanh thép, cho thấy rõ những hành động của Trung Quốc là mối đe dọa lớn cho hòa bình và an ninh trong khu vực.
"Việt Nam phải tiếp tục đưa vụ việc này ra cộng đồng quốc tế, nếu không sẽ đứng trước nguy cơ bị cô lập. Việt Nam có thế đứng vững chắc, với điều kiện không bị khiêu khích bởi Trung Quốc".
Ông Thayer nhấn mạnh vai trò quan trọng của một số nước trong ASEAN như Indonesia, Malaysia và Singapore. Các nước này đều lo lắng trước hành động hung hăng quyết đoán của Trung Quốc và thể hiện sự ủng hộ về chính trị và ngoại giao với Việt Nam và Philippines. Tuy nhiên, ông cũng nhận xét rằng họ lại không muốn ASEAN can dự trực tiếp vào xung đột với Trung Quốc.
"Việt Nam và Philippines là hai nước ở tiền tuyến trong số các nước có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông", chuyên gia nói. "Sự hợp tác giữa Việt Nam và Philippines mới đây là một bước đi rất tích cực".
Thứ bảy, 24/5/2014 12:06
VEXP
“Tình hữu nghị” nay là hiểm họa của kinh tế Việt Nam
HÀ NỘI (NV) .-Mâu thuẫn về chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng có thể sẽ là lý do khiến Trung Quốc gây áp lực bằng cách cắt đứt quan hệ kinh tế, khiến kinh tế Việt Nam suy sụp.
Cửa khẩu Móng Cái. Mở rộng cửa để nhập cảng đủ thứ từ Trung Quốc, dễ dãi trong việc tiếp nhận đầu tư, nhà thầu từ Trung Quốc, khiến kinh tế Việt Nam càng ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và nay, sự lệ thuộc đó trở thành nguy cơ khiến nền kinh tế có thể bị suy sụp. (Hình: Báo Quảng Ninh)
Đó là điều đang khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại bởi kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc. Kể từ năm ngoái, các chuyên gia kinh tế ở Việt Nam đã liên tục cảnh báo về sự lệ thuộc Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế, sau khi có hàng loạt dữ liệu đáng lo.
Ví dụ, năm 2013, xuất cảng của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 7% nhưng nhập cảng từ Trung Quốc tăng 28%. Tốc độ gia tăng của nhập cảng từ Trung Quốc gấp 4 lần so với tốc độ xuất cảng và chênh lệch về cán cân thương mại trong quan hệ với Trung Quốc càng lúc càng lớn.
Hồi trung tuần tháng 12 năm 2013, tại một hội nghị bàn về việc thực hiện thỏa thuận thương mại tự do, Bộ Công Thương Việt Nam xác nhận, chỉ trong 10 năm, từ 2001 đến 2012, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 76 lần, từ 210 triệu USD hồi 2001, thành 16 tỷ USD vào năm 2012.
Tháng 6 năm 2013, sau khi có thống kê cho biết, bốn tháng đầu năm 2013, Việt Nam chi 40.2 tỷ USD cho việc nhập cảng, trong đó có tới 10 tỷ USD chỉ để nhập cảng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, hàng hóa của Trung Quốc. Ông Võ Trí Thành, một chuyên gia kinh tế, khẳng định, điều đó cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, phụ liêu của Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc ngừng xuất cảng chúng sang Việt Nam, sẽ có hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam hấp hối vì không kịp ứng phó. Lúc đó, ông Thành than rằng, cả khả năng cạnh tranh lẫn công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam quá yếu, vì vậy Việt Nam đang phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc cả về hàng trung gian lẫn hàng tiêu dùng cuối cùng.
Nay, những cảnh báo đó có nguy cơ trở thành hiện thực. Trò chuyện với BBC, ông Phạm Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách - Phát triển, cho rằng, Việt Nam phải chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất”: Trung Quốc “cắt đứt quan hệ thương mại và đầu tư” do mâu thuẫn về chủ quyền.
Ông Thọ lo ngại là vì: Cán cân thâm hụt thương mại luôn luôn nghiêng về phía Việt Nam, khoảng 20 tỷ Mỹ kim/ năm. Hàng loạt những công trình rất quan trọng về năng lượng, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam do Trung Quốc đầu tư và đảm nhận. Trong thương mại tiểu ngạch giữa hai bên, lợi thế cũng nghiêng về phía Trung Quốc.
Có những dấu hiệu cho thấy “kinh tế ngầm” – do các thế lực giấu mặt điều hành, thực hiện các thương vụ gây tổn hại cho kinh tế, tài nguyên Việt Nam, kết hợp rất chặt chẽ với đối tác Trung Quốc.
Bà Phạm Chi Lan, cựu Phó Chủ tịch Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam, xác nhận, “nếu Trung Quốc đình chỉ quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Việt Nam, Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn” vì Trung Quốc là phía thực hiện rất nhiều dự án ở Việt Nam. Nếu Trung Quốc khiến cho các dự án đó không thể tiến hành bình thường thì Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các chương trình phát triển. Chưa kể việc trì hoãn hoàn thành các dự án đó còn gây thêm tốn kém.
Một chuyên gia kinh tế khác tên là Bùi Kiến Thành nói thêm, sự phụ thuộc về nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu vào Trung Quốc sẽ khiến nhiều ngành công nghiệp lớn, sử dụng nhiều nhân công như may mặc, tê liệt nếu Trung Quốc “cắt đứt quan hệ kinh tế”, bởi đa phần vật liệu của những ngành này nhập cảng từ Trung Quốc. Ông Thành lưu ý, Trung Quốc đang đảm nhận việc thi công tất cả những nhà máy điện lớn nhất tại Việt Nam nên phải xem xét chúng ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, kinh tế Việt Nam như thế nào.
Để đối phó với “tình huống xấu nhất”, các chuyên gia kinh tế cho rằng, chính quyền Việt Nam phải sớm có giải pháp phát triển nội lực của doanh giới, xã hội. Xây dựng, củng cố những mối quan hệ khác với các quốc gia trong khu vực, với Nhật, Nam Hàn. Xích lại gần hơn với Liên minh châu Âu (EU). Tìm kiếm sự đồng thuận để trở thành một bên trong Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Ông Phạm Qúy Thọ tin rằng, đó sẽ là một trong những nội dung chính trong cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Việt Nam và Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi ông Phạm Bình Minh đến Hoa Kỳ theo lời mời của ông John Kerry. (G.Đ)
05-23-2014 3:31:55 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=188632&zoneid=2#.U4AvyfldUXo
Cửa khẩu Móng Cái. Mở rộng cửa để nhập cảng đủ thứ từ Trung Quốc, dễ dãi trong việc tiếp nhận đầu tư, nhà thầu từ Trung Quốc, khiến kinh tế Việt Nam càng ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và nay, sự lệ thuộc đó trở thành nguy cơ khiến nền kinh tế có thể bị suy sụp. (Hình: Báo Quảng Ninh)
Đó là điều đang khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại bởi kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc. Kể từ năm ngoái, các chuyên gia kinh tế ở Việt Nam đã liên tục cảnh báo về sự lệ thuộc Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế, sau khi có hàng loạt dữ liệu đáng lo.
Ví dụ, năm 2013, xuất cảng của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 7% nhưng nhập cảng từ Trung Quốc tăng 28%. Tốc độ gia tăng của nhập cảng từ Trung Quốc gấp 4 lần so với tốc độ xuất cảng và chênh lệch về cán cân thương mại trong quan hệ với Trung Quốc càng lúc càng lớn.
Hồi trung tuần tháng 12 năm 2013, tại một hội nghị bàn về việc thực hiện thỏa thuận thương mại tự do, Bộ Công Thương Việt Nam xác nhận, chỉ trong 10 năm, từ 2001 đến 2012, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 76 lần, từ 210 triệu USD hồi 2001, thành 16 tỷ USD vào năm 2012.
Tháng 6 năm 2013, sau khi có thống kê cho biết, bốn tháng đầu năm 2013, Việt Nam chi 40.2 tỷ USD cho việc nhập cảng, trong đó có tới 10 tỷ USD chỉ để nhập cảng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, hàng hóa của Trung Quốc. Ông Võ Trí Thành, một chuyên gia kinh tế, khẳng định, điều đó cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, phụ liêu của Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc ngừng xuất cảng chúng sang Việt Nam, sẽ có hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam hấp hối vì không kịp ứng phó. Lúc đó, ông Thành than rằng, cả khả năng cạnh tranh lẫn công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam quá yếu, vì vậy Việt Nam đang phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc cả về hàng trung gian lẫn hàng tiêu dùng cuối cùng.
Nay, những cảnh báo đó có nguy cơ trở thành hiện thực. Trò chuyện với BBC, ông Phạm Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách - Phát triển, cho rằng, Việt Nam phải chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất”: Trung Quốc “cắt đứt quan hệ thương mại và đầu tư” do mâu thuẫn về chủ quyền.
Ông Thọ lo ngại là vì: Cán cân thâm hụt thương mại luôn luôn nghiêng về phía Việt Nam, khoảng 20 tỷ Mỹ kim/ năm. Hàng loạt những công trình rất quan trọng về năng lượng, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam do Trung Quốc đầu tư và đảm nhận. Trong thương mại tiểu ngạch giữa hai bên, lợi thế cũng nghiêng về phía Trung Quốc.
Có những dấu hiệu cho thấy “kinh tế ngầm” – do các thế lực giấu mặt điều hành, thực hiện các thương vụ gây tổn hại cho kinh tế, tài nguyên Việt Nam, kết hợp rất chặt chẽ với đối tác Trung Quốc.
Bà Phạm Chi Lan, cựu Phó Chủ tịch Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam, xác nhận, “nếu Trung Quốc đình chỉ quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Việt Nam, Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn” vì Trung Quốc là phía thực hiện rất nhiều dự án ở Việt Nam. Nếu Trung Quốc khiến cho các dự án đó không thể tiến hành bình thường thì Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các chương trình phát triển. Chưa kể việc trì hoãn hoàn thành các dự án đó còn gây thêm tốn kém.
Một chuyên gia kinh tế khác tên là Bùi Kiến Thành nói thêm, sự phụ thuộc về nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu vào Trung Quốc sẽ khiến nhiều ngành công nghiệp lớn, sử dụng nhiều nhân công như may mặc, tê liệt nếu Trung Quốc “cắt đứt quan hệ kinh tế”, bởi đa phần vật liệu của những ngành này nhập cảng từ Trung Quốc. Ông Thành lưu ý, Trung Quốc đang đảm nhận việc thi công tất cả những nhà máy điện lớn nhất tại Việt Nam nên phải xem xét chúng ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, kinh tế Việt Nam như thế nào.
Để đối phó với “tình huống xấu nhất”, các chuyên gia kinh tế cho rằng, chính quyền Việt Nam phải sớm có giải pháp phát triển nội lực của doanh giới, xã hội. Xây dựng, củng cố những mối quan hệ khác với các quốc gia trong khu vực, với Nhật, Nam Hàn. Xích lại gần hơn với Liên minh châu Âu (EU). Tìm kiếm sự đồng thuận để trở thành một bên trong Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Ông Phạm Qúy Thọ tin rằng, đó sẽ là một trong những nội dung chính trong cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Việt Nam và Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi ông Phạm Bình Minh đến Hoa Kỳ theo lời mời của ông John Kerry. (G.Đ)
05-23-2014 3:31:55 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=188632&zoneid=2#.U4AvyfldUXo
Việt Nam hối hả xử người liên quan đến biểu tình bạo động
BÌNH DƯƠNG (NV) .- Một số người liên quan đến các vụ biểu tình bạo động chống Trung Quốc tại các khu kỹ nghệ tỉnh Bình Dương hồi tuần qua sẽ bị xét xử ngay vào ngày Chủ Nhật 25 tháng 5, 2014.
Thiếu chỗ giam giữ, nhiều người bị bắt sau các vụ bạo động hồi tuần qua bị giữ ngay ngoài trời ở tỉnh Bình Dương. (Hình: Thanh Niên)
Theo tin báo Thanh Niên, nhà cầm quyền tỉnh Bình Dương dự trù đưa ra một thứ tòa án lưu động xét xử ngay trong ngày Chủ Nhật 25/5/2014 tại thị xã Tân Uyên “một số đối tượng vi phạm pháp luật” liên quan đến các vụ bạo động những ngày 12 và 13 tại các khu kỹ nghệ trong tỉnh.
Nguồn tin thuật lời ông Nguyễn Hoàng Thao, Phó giám đốc công an tỉnh nói tính tới ngày 23/5/2014, tỉnh này đã “bắt giữ trên 1.000 đối tượng vi phạm pháp luật, trong đó thanh loại, tiến hành tạm giữ hình sự trên 800 đối tượng; đã khởi tố 221 vụ với gần 300 đối tượng bị bắt giam...” và còn đang điều tra tiếp tục để bắt thêm.
Việc lôi ra tòa kết án trong một thời gian ngắn ngủi như vậy, các người bị bắt giữ và điều tra hoàn toàn không có cơ hội tư vấn pháp lý, không được điều tra thấ uđáo và khoa học sẽ đưa đến những những bản án có thể không công bằng. Sự hối hả chứng tỏ Hà Nội nói với giới đầu tư ngoại quốc là chế độ không dung tha các hành vi bạo động, họ vọng họ đừng bỏ chạy.
Khoảng 15 cơ sở sản xuất bị đốt cháy trong số 400 cơ sở bị các đoàn người biểu tình phẫn nộ đập phá, đánh người Hoa sau các tin tức Trung quốc mang giàn khoan HD981 đến dò tìm dầu khí trên vùng biển đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Trong số các nơi bị đập phá, tỉnh Bình Dương bị nặng nhất về tài sản nhưng không có ai thiệt mạng.
Vụ biểu tình bạo động ở khu kinh tế vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, nhắm vào nhà máy luyện thép Formosa đang xây dựng dở dang, đã làm cho ít nhất 4 người Trung quốc chết và trên dưới 130 người bị thương khi hàng ngàn người địa phương tràn vào. Tuy là vốn đầu tư Đài Loan nhưng tập đoàn Formosa Plastics Group lại thuê nhà thầu Trung quốc China Metallurgical Corp., thực hiện.
Những người biểu tình, trong cơn giận dữ, không những đã đập phá các công ty vốn đầu tư Trung quốc mà các công ty vốn Đài Loan lại thiệt hại nặng nhất. Ngay cả các công ty Nhật Bản, Hàn quốc và Việt Nam cũng bị vạ lây.
Giới đầu tư ngoại quốc tỏ vẻ lo âu nhiều về sự ổn định và an ninh để đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, sau vụ bạo động, nên nhà cầm quyền muốn có hành động nhanh chóng và mạnh mẽ hầu trấn an họ. Chưa thấy các tỉnh Đồng Nai và Hà Tĩnh loan báo gì về số phận của các người đã bị bắt giữ tại các tỉnh này. (TN)
05-23-2014 8:48:55 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=188693&zoneid=2#.U4AsOPldUXo
Thiếu chỗ giam giữ, nhiều người bị bắt sau các vụ bạo động hồi tuần qua bị giữ ngay ngoài trời ở tỉnh Bình Dương. (Hình: Thanh Niên)
Theo tin báo Thanh Niên, nhà cầm quyền tỉnh Bình Dương dự trù đưa ra một thứ tòa án lưu động xét xử ngay trong ngày Chủ Nhật 25/5/2014 tại thị xã Tân Uyên “một số đối tượng vi phạm pháp luật” liên quan đến các vụ bạo động những ngày 12 và 13 tại các khu kỹ nghệ trong tỉnh.
Nguồn tin thuật lời ông Nguyễn Hoàng Thao, Phó giám đốc công an tỉnh nói tính tới ngày 23/5/2014, tỉnh này đã “bắt giữ trên 1.000 đối tượng vi phạm pháp luật, trong đó thanh loại, tiến hành tạm giữ hình sự trên 800 đối tượng; đã khởi tố 221 vụ với gần 300 đối tượng bị bắt giam...” và còn đang điều tra tiếp tục để bắt thêm.
Việc lôi ra tòa kết án trong một thời gian ngắn ngủi như vậy, các người bị bắt giữ và điều tra hoàn toàn không có cơ hội tư vấn pháp lý, không được điều tra thấ uđáo và khoa học sẽ đưa đến những những bản án có thể không công bằng. Sự hối hả chứng tỏ Hà Nội nói với giới đầu tư ngoại quốc là chế độ không dung tha các hành vi bạo động, họ vọng họ đừng bỏ chạy.
Khoảng 15 cơ sở sản xuất bị đốt cháy trong số 400 cơ sở bị các đoàn người biểu tình phẫn nộ đập phá, đánh người Hoa sau các tin tức Trung quốc mang giàn khoan HD981 đến dò tìm dầu khí trên vùng biển đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Trong số các nơi bị đập phá, tỉnh Bình Dương bị nặng nhất về tài sản nhưng không có ai thiệt mạng.
Vụ biểu tình bạo động ở khu kinh tế vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, nhắm vào nhà máy luyện thép Formosa đang xây dựng dở dang, đã làm cho ít nhất 4 người Trung quốc chết và trên dưới 130 người bị thương khi hàng ngàn người địa phương tràn vào. Tuy là vốn đầu tư Đài Loan nhưng tập đoàn Formosa Plastics Group lại thuê nhà thầu Trung quốc China Metallurgical Corp., thực hiện.
Những người biểu tình, trong cơn giận dữ, không những đã đập phá các công ty vốn đầu tư Trung quốc mà các công ty vốn Đài Loan lại thiệt hại nặng nhất. Ngay cả các công ty Nhật Bản, Hàn quốc và Việt Nam cũng bị vạ lây.
Giới đầu tư ngoại quốc tỏ vẻ lo âu nhiều về sự ổn định và an ninh để đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, sau vụ bạo động, nên nhà cầm quyền muốn có hành động nhanh chóng và mạnh mẽ hầu trấn an họ. Chưa thấy các tỉnh Đồng Nai và Hà Tĩnh loan báo gì về số phận của các người đã bị bắt giữ tại các tỉnh này. (TN)
05-23-2014 8:48:55 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=188693&zoneid=2#.U4AsOPldUXo
Tội ác của Trung Quốc rất lớn làm người dân Philipines khốn khó
Đó là mô tả của bài đăng trên báo Mỹ The New York Times về tình cảnh khố khó của những người đánh cá nghèo Philippines trên vùng biển của họ nay đang bị Trung Quốc đưa tàu vào hòng chiếm đoạt, theo bản chuyển ngữ của Như Tâm, báo VnExpress. Dưới đây là nội dung bài báo.
Vị trí bãi Scarborough/Hoàng Nham và thị trấn Masinloc. Đồ họa: New York Times |
Vào một buổi chiều nắng nóng, ngư dân ở Masinloc, một thị trấn không mấy nhộn nhịp trên đảo Luzon, bắt đầu chuyển những khối đá lạnh lên con tàu gỗ ọp ẹp đang nhấp nhô ngay sát bờ biển. Con tàu dài 9 m được trang bị thêm mái chèo bằng tre ở hai bên thân, giúp nó có thể ổn định tại những vùng biển động trên Biển Đông.
Con tàu ra khơi ngay khi màn đêm buông xuống, tiến về ngư trường ở bãi cạn có tên quốc tế là Scarborough còn người Trung Quốc gọi là Hoàng Nham và bắt đầu trò "mèo đuổi chuột" với tàu tuần duyên của Trung Quốc. Bãi cạn này là khu vực có nhiều sản vật, là nơi sinh sống của cá marlin xanh, cá mú đỏ, tôm hùm, cá ngừ vân, cá ngừ vây vàng... Trung Quốc và Philippines đều tuyên bố chủ quyền với bãi cạn này.
"Ở Scarborough, ngư dân không cần phải bắt cá", Jerry Escape, cán bộ thủy sản thị trấn, vui vẻ nói. "Cá tự bơi về phía ngư dân, chào đón họ và để họ đưa chúng ra khỏi biển".
Từ Masinloc, con tàu cá với một động cơ có thể đến bãi cạn trong khoảng 18 giờ. Những ngư dân bình thường có thể thường xuyên đánh bắt được hơn một tấn cá mỗi ngày chỉ bằng các ngư cụ tối thiểu.
Để câu chuyện về cá sang một bên, các ngư dân cho biết họ cảm thấy đang bị kẹt giữa một cuộc chiến địa chính trị mà trong đó đất nước của họ, ít nhất là cho tới lúc này, dường như đang thất thế dần. Trong hai năm qua, bãi ngầm Scarborough/Hoàng Nham nằm dưới sự kiểm soát của các tàu tuần duyên Trung Quốc. Ngư dân Philippines mưu sinh tại đó gần như bị tước mất nguồn lợi thủy sản vốn đã nuôi sống gia đình họ hàng chục năm qua.
"Ngư dân không còn lựa chọn nào khác", ông Escape nói. "Họ đánh bắt ở đó cho đến khi bị tàu Trung Quốc đuổi bắt".
Ngư dân Mario Forones. Ảnh: New York Times |
Mario Forones, 54 tuổi, người vừa trở về thị trấn vào cuối tháng 2 sau một chuyến đi biển, mô tả các tàu tuần duyên Trung Quốc thường xuyên di chuyển vòng quanh bãi cạn. Trong khi đó, một tàu khác cắm chốt phía trong, sẵn sàng xông ra chặn đường bất kỳ tàu cá nào vượt qua lớp phòng vệ đầu tiên.
"Nếu ngư dân đến quá gần, họ sẽ đi tàu cao su ra và hét lên bằng tiếng Anh: 'Hãy rời khỏi đây! Hãy rời khỏi đây'", ông Forones kể lại.
Theo quân đội Philippines, một số ngư dân còn bị đối xử thô bạo hơn. Trong tháng giêng,
mùa ra khơi đánh bắt lớn trong năm, các tàu Trung Quốc đã sử dụng vòi rồng để xua đuổi một số tàu cá Philippines.
Nền kinh tế bị tàn phá
Bãi ngầm Scarborough/Hoàng Nham chỉ là một trong số hàng loạt khu vực trên Biển Đông và biển Hoa Đông đang nằm trong trò chơi kéo co giữa Trung Quốc với các quốc gia Châu Á khác.
Xung đột ở bãi ngầm này lên cao vào tháng 4/2012, khi Philippines tố ngư dân Trung Quốc khai thác trộm loại san hô được bảo vệ và đánh bắt trai biển khổng lồ ở khu vực cách bờ biển phía tây đảo Luzon khoảng 200 km. Tàu tuần duyên Philippines và một số tàu chính phủ Trung Quốc đối đầu nhau trong hơn một tháng, trước khi phía Philippines rút lui. Tuy nhiên, tàu Trung Quốc không rời đi mà thay vào đó, lại thiết lập các đợt tuần tra thường xuyên để chặn lối vào và bảo vệ tàu cá Trung Quốc tại vùng biển nêu trên.
Khoảng thời gian đó, tàu cá của ngư dân thị trấn Masinloc trở về với sản lượng thấp hơn. Thay vào đó, những câu chuyện về việc cố gắng tiếp cận ngư trường ở bãi cạn, đánh bắt nhiều cá nhất có thể trước khi bị đuổi đi lại nhiều thêm.
Các ngư dân ở khu vực khác tại quốc đảo Philippines ít phụ thuộc vào việc đánh bắt ở bãi ngầm vì đây không phải là ngư trường chính. Để ra Scarborough/Hoàng Nham, họ cần có tàu lớn hơn, tốn kém hơn để ra khơi rồi đưa nguồn lợi thu được trở về. Nhưng đối với người dân Masinloc, bãi ngầm được xem như là một phần mở rộng của thị trấn.
Việc đánh bắt có vai trò đặc biệt quan trọng với Masinloc bởi nơi đây từng bỏ lỡ cú hích giúp Philippines trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất Châu Á. Trung tâm của thị trấn chỉ có một khu chợ ngoài trời và một trung tâm mua sắm với phần lớn diện tích bỏ không. Nơi đây chỉ có những người buôn bán nhỏ lẻ, bày hàng hóa trên những giá tạm thời trong khi người mua thì thưa thớt.
Thị trưởng Masinloc, bà Desiree Edora, cho biết thị trấn 45.000 dân này đang phải vật lộn với những tổn thất thương mại. Việc sản lượng đánh bắt thấp ảnh hưởng đến mọi người dân, từ người bán đá lạnh, tài xế xe tải cho đến các chủ nhà hàng. Theo Edora, dù chưa tính khoản lỗ trong ngành công nghiệp được chính quyền địa phương quản lý một phần này, thiệt hại cũng đã là rất lớn.
Nền kinh tế Masinloc dựa trên đánh bắt cá, trồng lúa và một nhà máy nhiệt điện. Ở đây không có các khu công nghiệp, xí nghiệp để nhận ngư dân vào làm nếu họ không thể mưu sinh từ bãi cạn.
Trong lúc thị trấn hy vọng sớm có thể tiếp cận bãi cạn trở lại, bà Edora bắt đầu triển khai các bước để hỗ trợ ngư dân. Bà đã làm việc cùng chính phủ với hy vọng có thể cung cấp cho ngư dân các rạn san hô nhân tạo, neo dưới đáy đại dương để thu hút cá. Tuy nhiên, bà thị trưởng cũng lưu ý rằng thứ gọi là rạn san hô nhân tạo này có sức thu hút cá kém xa so với san hô tự nhiên
Tranh chấp trên biển
Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham dựa trên cái mà họ cho là bằng chứng lịch sử. Trong khi đó, Manila cũng đưa ra những bản đồ riêng, cho thấy bãi cạn trên là một phần lãnh thổ Philippines ít nhất là từ năm 1734, khi Tây Ban Nha còn thống trị quốc đảo này.
Manila cho rằng họ duy trì quyền hạn pháp lý liên tục đối với Scarborough/Hoàng Nham kể từ sau khi giành độc lập vào năm 1946, đồng thời nhấn mạnh rằng bãi cạn này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines. Philippines đệ trình các tuyên bố đối với Scarborough và một số khu vực khác đang tranh chấp trên Biển Đông lên tòa trọng tài quốc tế của Liên Hiệp Quốc. Đây là hướng đi dự kiến phải mất nhiều năm để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cho đến nay, Bắc Kinh vẫn từ chối ra tòa.
Trong hai tuần qua, cảnh sát Philippines bắt giữ 9 ngư dân Trung Quốc với cáo buộc đánh bắt trái phép trên khu vực gần bãi Trăng Khuyết (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) mà Bắc Kinh và Manila cũng tuyên bố có chủ quyền. Tiếp đó, quốc đảo này công bố hình ảnh ở một bãi cạn khác, cho thấy Trung Quốc đang thực hiện các công việc gây thay đổi hiện trạng, trái với tinh thần của Tuyên bố về ứng xử Biển Đông (DOC).
Trái ngược với sự đối đầu của hai chính phủ, rất ít người dân ở Masinloc đề cập đến sự đe dọa của Trung Quốc. Thay vào đó, họ bày tỏ thái độ buông xuôi trong mệt mỏi. Họ vốn đã nghèo, ngay cả trước khi Trung Quốc chiếm giữ bãi cạn. Họ nói rằng có rất ít dấu hiệu của sự thịnh vượng ở nơi đây.
"Bãi cạn Scarborough là của chúng tôi", ông Escape nói. "Nhưng Trung Quốc quá mạnh, bởi vậy họ đã làm những gì họ thích. Chúng tôi yếu thế hơn nên không thể làm gì cả".
Tolomeo Forones, người anh em của Mario và là một ngư dân thời vụ, nói rằng cách giải quyết đã quá rõ ràng: đưa các căn cứ quân sự Mỹ trở lại. Tolomeo hy vọng rằng khi quân đội Mỹ duy trì các căn cứ ở Philippines, lực lượng tuần duyên Trung Quốc sẽ không dám lảng vảng gần quốc đảo.
Tuy nhiên, điều này trong ngắn hạn chưa thể thực hiện được. Mỹ và Philippines và hồi tháng 4 ký kết thỏa thuận hợp tác quân sự. Thỏa thuận này cho phép Washington sử dụng các cơ sở quân sự, phần lớn ở bờ biển hướng về phía Trung Quốc, dự kiến là nơi ghé chân cho các chiến hạm lớn và có thể là các phi đội của Mỹ. Tuy nhiên, phải mất nhiều năm để thiết lập các cơ sở và đưa chúng vào vận hành.
Tolomeo cảm thấy cơ hội tốt nhất cho quốc đảo có thể đối đầu với Trung Quốc đã bị bỏ phí cách đây nhiều năm, vào những năm 1990. Khi đó, Philippines yêu cầu người Mỹ rời khỏi căn cứ hải quân cũ ở Vịnh Subic, cách Masinloc chỉ 112 km về phía nam.
"Nếu Subic vẫn còn là một căn cứ của Hải quân Mỹ, Trung Quốc sẽ không có mặt ở đó", ông nói. "Giờ thì người Mỹ đã rời khỏi đây và Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với những hòn đảo của chúng tôi. Họ không sợ hải quân của chúng tôi".
Thứ sáu, 23/5/2014 0:49 GMT+7
(New York Times)
Quốc hội kêu gọi “thắt lưng buộc bụng”
NLĐ-Tại phiên thảo luận về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, nhiều đại biểu Quốc hội kêu gọi ổn định kinh tế vĩ mô gắn với quốc phòng, dồn sức mua tàu cá hỗ trợ ngư dân bám biển
Ngày 23-5, Quốc hội (QH) thảo luận tại tổ về kế hoạch kinh tế - xã hội và quyết toán ngân sách.
Dừng đầu tư những công trình không cấp thiết
Mở màn phiên thảo luận tại tổ của đoàn TP HCM, đại biểu (ĐB)Trần Hoàng Ngân cho rằng cần đặt nền kinh tế trong trạng thái động. “Phải ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô gắn với quốc phòng. QH cần có nghị quyết về nông nghiệp, liên quan đến nông dân, ngư dân để cải thiện đời sống của người dân, xuất ngân sách để hỗ trợ đội tàu cho ngư dân” - ĐB Ngân đề nghị. Theo ông Ngân, từ năm 2011-2013, Bộ Giao thông Vận tải tiết kiệm được 34.000 tỉ đồng, số tiền này có thể đầu tư cho đội tàu đánh bắt. Bên cạnh đó, ngành dầu khí cũng cần sử dụng lợi tức, tiền từ cổ phần hóa tài trợ cho ngư dân và cần có mô hình đầu tư tàu thuyền cùng ngư dân bám biển.
ĐB Trần Du Lịch, Phó trưởng Đoàn ĐBQH TP HCM, cho rằng cần có hỗ trợ mạnh cho ngư nghiệp như tập trung đóng tàu cho ngư dân thuê. “Do đang không có việc làm, đề nghị Vinashin đóng tàu sắt cho thuê vì ngư dân bám biển đang cần có tàu sắt thu mua và chuyển hải sản về đất liền tiêu thụ. Để làm được việc này, cần có sự tham gia của ngân sách nhà nước” - ông Lịch hiến kế.
Đại biểu Trần Du Lịch đề nghị cần có hỗ trợ mạnh cho ngư nghiệp-Ảnh: LONG THẮNG
Đại biểu Trần Du Lịch đề nghị cần có hỗ trợ mạnh cho ngư nghiệp Ảnh: LONG THẮNG
ĐB Đỗ Văn Đương kêu gọi: “Vấn đề biển Đông diễn biến còn phức tạp và tình huống xấu nhất buộc chúng ta phải tự vệ và giành thắng lợi thì vấn đề đặt ra là ngân sách dành cho quốc phòng. Đã đến lúc chúng ta phải thắt lưng buộc bụng”. Cụ thể, ĐB Đương kiến nghị thắt chặt phân bổ ngân sách, tạm dừng các công trình không cấp thiết như nạo vét sông Hậu tiêu tốn tới 5.000 tỉ đồng. ĐB Nguyễn Văn Minh cũng đề nghị QH yêu cầu Chính phủ dừng đầu tư một số công trình chưa triển khai, lấy tiền hỗ trợ cho ngư dân bám biển.
ĐB Nguyễn Thị Quyết Tâm cho rằng trong giai đoạn này, cùng với chính sách hỗ trợ xăng dầu, chúng ta cần đóng tàu cho ngư dân thuê để bám biển vì họ là người bảo vệ chủ quyền hữu hiệu nhất.
Không thể chấp nhận cứ mãi chi sai ngân sách
Về chi tiêu ngân sách, ĐB Nguyễn Thị Quyết Tâm đề nghị Chính phủ cần làm rõ việc chi sai chế độ vẫn tái diễn. Theo ĐB này, việc chi sai chỉ có thể hiểu là do chế độ quá lỗi thời nên phải “lách” và cố tình chi sai vì lợi ích riêng. “Chi sai như vậy, có xử lý được không hay dù biết chi sai nhưng vẫn cứ quyết toán vì cho rằng luật không đúng. Cứ duy trì mãi thói quen phê bình rồi rút kinh nghiệm là không thể chấp nhận” - ĐB Quyết Tâm gay gắt.
Để quản lý tốt ngân sách, ĐB Quyết Tâm đề nghị: “Tuyên truyền cho cán bộ, công chức hiểu rõ tiền ngân sách từ đâu mà có để chi tiêu có ý thức bởi khắp nơi đang phổ biến câu nói rất vô cảm: Tiền nhà nước là phải tiêu cho hết, không xài là lãng phí”. ĐB Quyết Tâm cho biết lãng phí ngân sách không chỉ do đi nước ngoài nhiều, hội thảo không kể hết, in tài liệu vô tội vạ mà còn do mua sắm nhưng chưa sử dụng.
Đồng tình, ĐB Trần Du Lịch gay gắt nói: “Gặp ĐBQH các nước, họ nói muốn mời mình ăn cơm nhưng không thể vì không có kế hoạch nên không có nguồn. Trong khi mình mời cơm thoải mái. Lãng phí còn do cán bộ, công chức Việt Nam đi nước ngoài nhiều quá. Tôi đề nghị cắt giảm, tình hình khó khăn thế này, QH phải quyết liệt”.
Tán đồng, ĐB Đặng Thành Tâm cho rằng: “QH cần ra lời hiệu triệu yêu nước bằng “thực hành tiết kiệm” trong tình hình hiện nay”. Hưởng ứng, ĐB Nguyễn Văn Minh nói thẳng: “Tôi rất dị ứng các festival. Nói festival là xã hội hóa nhưng cũng là nguồn lực xã hội, nên dồn lực giúp dân bám biển”.
Phải thoát khỏi phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc
Cùng thảo luận tại tổ về vấn đề kinh tế - xã hội, ĐB Bùi Đức Thụ (Lai Châu) cho rằng bất ổn ở biển Đông ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam và Trung Quốc. Vì vậy, cần có đánh giá kỹ về vấn đề này để có giải pháp cụ thể và bước đi phù hợp. “Nếu không có kịch bản trước thì dễ rơi vào bị động. Ngành dệt may đang phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc, ngành cao su cũng thế. Đây là những vấn đề lớn mà chúng ta cần phải sớm tính toán, tìm cách ứng phó. Kinh tế có mạnh thì quốc phòng an ninh mới vững được” - ĐB Thụ nhận định.
Theo ĐB Mai Xuân Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Kinh tế của QH, ủy ban đã thành lập tổ công tác phản ứng nhanh về vấn đề này để hằng tháng có báo cáo cụ thể cho Chính phủ và các ngành.
ĐB Trần Du Lịch góp ý phải nhanh chóng thoát khỏi phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Ông Lịch phân tích hiện nhiều ngành hàng phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc. Nếu cứ để vậy thì khó hướng tới TPP (Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương).
Thế Dũng - Ngọc Dung - Thế Kha
Ngày 23-5, Quốc hội (QH) thảo luận tại tổ về kế hoạch kinh tế - xã hội và quyết toán ngân sách.
Dừng đầu tư những công trình không cấp thiết
Mở màn phiên thảo luận tại tổ của đoàn TP HCM, đại biểu (ĐB)Trần Hoàng Ngân cho rằng cần đặt nền kinh tế trong trạng thái động. “Phải ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô gắn với quốc phòng. QH cần có nghị quyết về nông nghiệp, liên quan đến nông dân, ngư dân để cải thiện đời sống của người dân, xuất ngân sách để hỗ trợ đội tàu cho ngư dân” - ĐB Ngân đề nghị. Theo ông Ngân, từ năm 2011-2013, Bộ Giao thông Vận tải tiết kiệm được 34.000 tỉ đồng, số tiền này có thể đầu tư cho đội tàu đánh bắt. Bên cạnh đó, ngành dầu khí cũng cần sử dụng lợi tức, tiền từ cổ phần hóa tài trợ cho ngư dân và cần có mô hình đầu tư tàu thuyền cùng ngư dân bám biển.
ĐB Trần Du Lịch, Phó trưởng Đoàn ĐBQH TP HCM, cho rằng cần có hỗ trợ mạnh cho ngư nghiệp như tập trung đóng tàu cho ngư dân thuê. “Do đang không có việc làm, đề nghị Vinashin đóng tàu sắt cho thuê vì ngư dân bám biển đang cần có tàu sắt thu mua và chuyển hải sản về đất liền tiêu thụ. Để làm được việc này, cần có sự tham gia của ngân sách nhà nước” - ông Lịch hiến kế.
Đại biểu Trần Du Lịch đề nghị cần có hỗ trợ mạnh cho ngư nghiệp-Ảnh: LONG THẮNG
Đại biểu Trần Du Lịch đề nghị cần có hỗ trợ mạnh cho ngư nghiệp Ảnh: LONG THẮNG
ĐB Đỗ Văn Đương kêu gọi: “Vấn đề biển Đông diễn biến còn phức tạp và tình huống xấu nhất buộc chúng ta phải tự vệ và giành thắng lợi thì vấn đề đặt ra là ngân sách dành cho quốc phòng. Đã đến lúc chúng ta phải thắt lưng buộc bụng”. Cụ thể, ĐB Đương kiến nghị thắt chặt phân bổ ngân sách, tạm dừng các công trình không cấp thiết như nạo vét sông Hậu tiêu tốn tới 5.000 tỉ đồng. ĐB Nguyễn Văn Minh cũng đề nghị QH yêu cầu Chính phủ dừng đầu tư một số công trình chưa triển khai, lấy tiền hỗ trợ cho ngư dân bám biển.
ĐB Nguyễn Thị Quyết Tâm cho rằng trong giai đoạn này, cùng với chính sách hỗ trợ xăng dầu, chúng ta cần đóng tàu cho ngư dân thuê để bám biển vì họ là người bảo vệ chủ quyền hữu hiệu nhất.
Không thể chấp nhận cứ mãi chi sai ngân sách
Về chi tiêu ngân sách, ĐB Nguyễn Thị Quyết Tâm đề nghị Chính phủ cần làm rõ việc chi sai chế độ vẫn tái diễn. Theo ĐB này, việc chi sai chỉ có thể hiểu là do chế độ quá lỗi thời nên phải “lách” và cố tình chi sai vì lợi ích riêng. “Chi sai như vậy, có xử lý được không hay dù biết chi sai nhưng vẫn cứ quyết toán vì cho rằng luật không đúng. Cứ duy trì mãi thói quen phê bình rồi rút kinh nghiệm là không thể chấp nhận” - ĐB Quyết Tâm gay gắt.
Để quản lý tốt ngân sách, ĐB Quyết Tâm đề nghị: “Tuyên truyền cho cán bộ, công chức hiểu rõ tiền ngân sách từ đâu mà có để chi tiêu có ý thức bởi khắp nơi đang phổ biến câu nói rất vô cảm: Tiền nhà nước là phải tiêu cho hết, không xài là lãng phí”. ĐB Quyết Tâm cho biết lãng phí ngân sách không chỉ do đi nước ngoài nhiều, hội thảo không kể hết, in tài liệu vô tội vạ mà còn do mua sắm nhưng chưa sử dụng.
Đồng tình, ĐB Trần Du Lịch gay gắt nói: “Gặp ĐBQH các nước, họ nói muốn mời mình ăn cơm nhưng không thể vì không có kế hoạch nên không có nguồn. Trong khi mình mời cơm thoải mái. Lãng phí còn do cán bộ, công chức Việt Nam đi nước ngoài nhiều quá. Tôi đề nghị cắt giảm, tình hình khó khăn thế này, QH phải quyết liệt”.
Tán đồng, ĐB Đặng Thành Tâm cho rằng: “QH cần ra lời hiệu triệu yêu nước bằng “thực hành tiết kiệm” trong tình hình hiện nay”. Hưởng ứng, ĐB Nguyễn Văn Minh nói thẳng: “Tôi rất dị ứng các festival. Nói festival là xã hội hóa nhưng cũng là nguồn lực xã hội, nên dồn lực giúp dân bám biển”.
Phải thoát khỏi phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc
Cùng thảo luận tại tổ về vấn đề kinh tế - xã hội, ĐB Bùi Đức Thụ (Lai Châu) cho rằng bất ổn ở biển Đông ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam và Trung Quốc. Vì vậy, cần có đánh giá kỹ về vấn đề này để có giải pháp cụ thể và bước đi phù hợp. “Nếu không có kịch bản trước thì dễ rơi vào bị động. Ngành dệt may đang phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc, ngành cao su cũng thế. Đây là những vấn đề lớn mà chúng ta cần phải sớm tính toán, tìm cách ứng phó. Kinh tế có mạnh thì quốc phòng an ninh mới vững được” - ĐB Thụ nhận định.
Theo ĐB Mai Xuân Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Kinh tế của QH, ủy ban đã thành lập tổ công tác phản ứng nhanh về vấn đề này để hằng tháng có báo cáo cụ thể cho Chính phủ và các ngành.
ĐB Trần Du Lịch góp ý phải nhanh chóng thoát khỏi phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Ông Lịch phân tích hiện nhiều ngành hàng phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc. Nếu cứ để vậy thì khó hướng tới TPP (Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương).
Ngăn chặn lao động bất hợp pháp
Chiều cùng ngày, QH đã cho ý kiến về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
ĐB Tô Văn Tám (Kon Tum) góp ý cho các quyền của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam. ĐB Nguyễn Thái Học (Phú Yên) kiến nghị dự luật cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam. Ở góc độ khác, ĐB Đoàn Nguyễn Thùy Trang (TP HCM) lo ngại dự thảo luật vẫn còn “khe hở”, đó là giải pháp hạn chế tình trạng người nước ngoài sử dụng visa du lịch hoặc giấy thông hành biên giới vào sâu nội địa, cư trú, lao động bất hợp pháp...
T.Dũng
Chiến tranh Việt - Trung, có hay không?
Viết từ Sài Gòn-2014-05-23
Lính hải quân Việt Nam trên vùng biển TQ đặt giàn khoan HD 981. Ảnh chụp hôm 14/5/2014-AFP photo
Hiện tại, nhắc đến đề tài chiến tranh là điều hoàn toàn không nên, bởi tai ương này đã đến quá gần và có thể nổ ra bất kì giờ phút nào trên dải đất hình chữ S này. Nhưng nếu không nhắc đến nó cũng không được, vì đó là một thực tế mà mỗi người cần phải chuẩn bị và chọn cho mình một tâm thế cũng như một sự chuẩn bị khả thể nhất cho mạng sống và tính mạng cộng đồng, quốc dân.
Khi tôi viết những dòng này, không phải dựa trên dữ liệu những bức ảnh về quân đội và vũ khí của Trung Quốc đang dịch chuyển dần về biên giới Đồng Đăng, cũng không dựa trên chuyện giàn khoan HD 981, vì những chuyện đó đã là bài ngửa, không cần đoán hay phân tích nữa. Vấn đề tôi muốn nói đến ở đây là phe trục và bí mật khí tài.
Cũng xin nhắc lại một vấn đề trong chiến tranh mà đúng hơn đó là một bài học xương máu; Trung Quốc có địa hình hiểm trở không kém gì Việt Nam, điều này nói lên rằng trong chiến lược và địa hình, quân đội Trung Quốc không phải là loại quân không biết đánh du kích hoặc lơ ngơ với chiến trận núi non, rừng già. Bộ đội Việt Nam sẽ rất khó khăn để đối phó với lực lượng chuyên đánh trận theo địa hình này của Trung Cộng, bằng chứng là năm 1979, họ đã tiến sang các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và chốt ở đó khá lâu.
Về chiến trận trên biển, yếu tố chiến thuật và kĩ thuật khí tài lại đặt lên hàng đầu, khác xa với chiến trận rừng núi. Trận Gạc Ma 1988 và giàn khoan HD 981 đang diễn ra ít nhiều cũng chứng minh được vấn đề kĩ thuật khí tài vô cùng quan trọng. Nó quyết định thành hay bại, sinh hay tử, giữ được nước hay mất nước.
Ở trận Gạc Ma 1988, kẻ cướp đã mang súng vào tận nhà, dí súng vào đầu, không thể bảo chúng ta giữ hòa hiếu, tôn trọng luật pháp quốc tế nên không nổ súng nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền quốc gia, lãnh thổ, lập luận như vậy là láo toét. Chúng ta đã mất 64 chiến sĩ, mất 64 cơ số vũ khí và mất đứt bãi đá ngầm Gạc Ma mà hậu quả của nó thì đến bây giờ, nó trở thành một điểm mới để phóng hải đồ và là quân cảng của Trung Cộng trong một ngày gần đây. Rõ ràng trận Gạc Ma 1988 Việt Nam đã thua đau đớn và uổng phí một sự hy sinh xương máu của 64 người con nước Việt bởi không có tầm nhìn quân sự, chiến lược và không lượng được sức, hay nói khác là không đủ khí tài và chiến thuật, thua!
Hiện tại, vụ giàn khoan HD 981, chưa bàn gì về chuyện luật pháp quốc tế hoặc chiến lược quốc gia. Vì muốn bàn về một tòa án quốc tế, phiên tòa quốc tế, cần phải nhớ là ít nhất Việt Nam cũng không ở thế lép vế về mặt quân sự. Chính yếu tố này sẽ thúc đẩy sự công tâm ở phiên tòa quốc tế. Bởi vì xét cho cùng, nếu tương quan lực lượng của Việt Nam và Trung Quốc là 50/50, thế giới, giới quan sát mới lo sợ một cuộc chiến tranh khu vực nổ ra. Ngược lại, nếu tương quan lực lượng quá so le, chuyện một phiên tòa hình thức (thậm chí) để hợp thức hóa tài sản của kẻ cướp và an ủi kẻ thua trận là chuyện rất có thể. Vì nếu xử ra, công bố Trung Quốc sai, nhưng Trung Quốc vẫn khư khư dùng quân sự và thậm chí lăm le chuyển quân sang Việt Nam, nguy cơ chiến tranh khu vực xảy ra thì xử làm gì nữa!
Và tất cả mọi biểu hiện cũng như khả năng phản ứng của Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại chỉ cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam đang đứng ở vế dưới, đang ngày càng lún sâu vào thế đuối, hết đường gỡ. So về tương quan lực lượng (dù không đánh), lẽ ra nước bị cướp phải đưa ra lực lượng hùng hậu để thị uy và tạo thế áp đảo trong thương thảo, đối thoại. Đằng này, Việt Nam không những không thị uy được mà còn tỏ rõ sự yếu nhược của mình trước kẻ xâm lăng. Tôi tin là nếu Philipines hay bất kì nước nào có quyền lợi trên biển Đông nếu bị Trung Quốc xâm lăng, họ sẽ không yếu đuối và chịu nhục như Việt Nam, ít nhất họ cũng cho thấy được sức mạnh của họ. Vì sao lại có chuyện như thế?
Vì Việt Nam có 3 yếu tố chi phối mà chắc chắn là ba yếu tố này tồn tại thì Trung Quốc sẽ dễ dàng lấy từng phần lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam: Phụ thuộc và nợ nần Trung Quốc; Tham nhũng tàn bạo; Giới cầm quyền quá yếu kém và vẫn chưa thoát khỏi tình trạng dốt nát từ trung ương xuống địa phương.
Vấn đề phục thuộc và nợ nần Trung Quốc sẽ khiến cho nhà cầm quyền Việt Nam lo sợ một cuộc “bạch hóa” từ phía Trung Quốc và luôn cúi luồn Trung Quốc cho qua chuyện. Vấn đề tham nhũng đã đưa đất nước đến chỗ nghèo nàn, tiền mua khí tài và đầu tư nuôi quân, chuyên nghiệp hóa quân đội bị nuốt chừng vào túi quan tham, hệ quả là như đang thấy, khí tài Việt Nam quá lạc hậu so với Trung Quốc. Đừng nói chi đến hai chiếc tàu ngầm hạng kilo vừa mua của Nga, cả hai chục chiếc như thế cũng chưa chắc địch nổi với cả một binh chủng tàu ngầm khủng của Trung Quốc! Và tình trạng dốt từ Trung ương xuống địa phương đã không cho ra được những giải pháp khả dĩ để đánh kẻ xâm lược mà vô hình trung, sự cộng hưởng cái dốt đã đẩy bộ máy trung ương tập quyền vào cảm giác hoang mang, sợ hãi và tư thủ, chưa thấy giặc đã lo ôm tài sản cất giấu và bỏ chạy.
Vừa rồi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn khá hay, khá quyết liệt, trong đó có một ý nói lên tất cả: “Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác. Đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam. Chúng tôi đã công khai điều này rất nhiều lần với thế giới!”.
Thử hỏi: Vũ khí của Việt Nam có bao nhiêu phần trăm mua của Nga? Chắc chắc là không dưới 80%. Trong khi đó, Nga chọn đứng về phía Trung Quốc, như vậy, bí mật khí tài của Việt Nam còn ra trò trống gì nữa đối với Trung Quốc? Và một khi Việt Nam không tham gia liên minh quân sự, cũng đồng nghĩa với không bao giờ có chuyện mời Mỹ hay Nhật hay bất kì nước nào cố vấn hoặc hỗ trợ quân sự, như vậy, với vũ khí hiện tại, đánh được mấy ngày với Trung Quốc?
Và một khi kĩ thuật khí tài quá thua kém, liên minh quân sự không có, nếu đánh nhau, chỉ dựa hoàn toàn vào yếu tố con người, liệu sự gan dạ, dũng cảm và quyết tâm hy sinh cho tổ quốc của các chiến sĩ Việt Nam có ý nghĩa gì trước các khối sắt, thép biết nói chuyện của kẻ thù? Và có bao nhiêu nhân mạng con em Việt Nam mang ra để nướng trên chiến cuộc này?
Đến đây, chắc có lờ mờ cũng nhìn thấy được bức thông điệp của ông thủ tướng Dũng là gì rồi! Đừng vội mừng! Mà cần suy nghĩ nhiều hơn về cuộc cờ đầy tiền, máu và nước mắt đang sắp đến hồi cao trào này! Và đến đây, xin trả lời câu hỏi bên trên: chắc chắn có chiến tranh Việt – Trung. Và thắng thua cũng đã xếp đặt cả rồi, kẻ thắng làm gì, người thua về đâu, nghe ra cũng đã có bài bản cả rồi!
Viết từ Sài Gòn, 22/05/2014
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Lính hải quân Việt Nam trên vùng biển TQ đặt giàn khoan HD 981. Ảnh chụp hôm 14/5/2014-AFP photo
Hiện tại, nhắc đến đề tài chiến tranh là điều hoàn toàn không nên, bởi tai ương này đã đến quá gần và có thể nổ ra bất kì giờ phút nào trên dải đất hình chữ S này. Nhưng nếu không nhắc đến nó cũng không được, vì đó là một thực tế mà mỗi người cần phải chuẩn bị và chọn cho mình một tâm thế cũng như một sự chuẩn bị khả thể nhất cho mạng sống và tính mạng cộng đồng, quốc dân.
Khi tôi viết những dòng này, không phải dựa trên dữ liệu những bức ảnh về quân đội và vũ khí của Trung Quốc đang dịch chuyển dần về biên giới Đồng Đăng, cũng không dựa trên chuyện giàn khoan HD 981, vì những chuyện đó đã là bài ngửa, không cần đoán hay phân tích nữa. Vấn đề tôi muốn nói đến ở đây là phe trục và bí mật khí tài.
Cũng xin nhắc lại một vấn đề trong chiến tranh mà đúng hơn đó là một bài học xương máu; Trung Quốc có địa hình hiểm trở không kém gì Việt Nam, điều này nói lên rằng trong chiến lược và địa hình, quân đội Trung Quốc không phải là loại quân không biết đánh du kích hoặc lơ ngơ với chiến trận núi non, rừng già. Bộ đội Việt Nam sẽ rất khó khăn để đối phó với lực lượng chuyên đánh trận theo địa hình này của Trung Cộng, bằng chứng là năm 1979, họ đã tiến sang các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và chốt ở đó khá lâu.
Về chiến trận trên biển, yếu tố chiến thuật và kĩ thuật khí tài lại đặt lên hàng đầu, khác xa với chiến trận rừng núi. Trận Gạc Ma 1988 và giàn khoan HD 981 đang diễn ra ít nhiều cũng chứng minh được vấn đề kĩ thuật khí tài vô cùng quan trọng. Nó quyết định thành hay bại, sinh hay tử, giữ được nước hay mất nước.
Ở trận Gạc Ma 1988, kẻ cướp đã mang súng vào tận nhà, dí súng vào đầu, không thể bảo chúng ta giữ hòa hiếu, tôn trọng luật pháp quốc tế nên không nổ súng nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền quốc gia, lãnh thổ, lập luận như vậy là láo toét. Chúng ta đã mất 64 chiến sĩ, mất 64 cơ số vũ khí và mất đứt bãi đá ngầm Gạc Ma mà hậu quả của nó thì đến bây giờ, nó trở thành một điểm mới để phóng hải đồ và là quân cảng của Trung Cộng trong một ngày gần đây. Rõ ràng trận Gạc Ma 1988 Việt Nam đã thua đau đớn và uổng phí một sự hy sinh xương máu của 64 người con nước Việt bởi không có tầm nhìn quân sự, chiến lược và không lượng được sức, hay nói khác là không đủ khí tài và chiến thuật, thua!
Hiện tại, vụ giàn khoan HD 981, chưa bàn gì về chuyện luật pháp quốc tế hoặc chiến lược quốc gia. Vì muốn bàn về một tòa án quốc tế, phiên tòa quốc tế, cần phải nhớ là ít nhất Việt Nam cũng không ở thế lép vế về mặt quân sự. Chính yếu tố này sẽ thúc đẩy sự công tâm ở phiên tòa quốc tế. Bởi vì xét cho cùng, nếu tương quan lực lượng của Việt Nam và Trung Quốc là 50/50, thế giới, giới quan sát mới lo sợ một cuộc chiến tranh khu vực nổ ra. Ngược lại, nếu tương quan lực lượng quá so le, chuyện một phiên tòa hình thức (thậm chí) để hợp thức hóa tài sản của kẻ cướp và an ủi kẻ thua trận là chuyện rất có thể. Vì nếu xử ra, công bố Trung Quốc sai, nhưng Trung Quốc vẫn khư khư dùng quân sự và thậm chí lăm le chuyển quân sang Việt Nam, nguy cơ chiến tranh khu vực xảy ra thì xử làm gì nữa!
Và tất cả mọi biểu hiện cũng như khả năng phản ứng của Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại chỉ cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam đang đứng ở vế dưới, đang ngày càng lún sâu vào thế đuối, hết đường gỡ. So về tương quan lực lượng (dù không đánh), lẽ ra nước bị cướp phải đưa ra lực lượng hùng hậu để thị uy và tạo thế áp đảo trong thương thảo, đối thoại. Đằng này, Việt Nam không những không thị uy được mà còn tỏ rõ sự yếu nhược của mình trước kẻ xâm lăng. Tôi tin là nếu Philipines hay bất kì nước nào có quyền lợi trên biển Đông nếu bị Trung Quốc xâm lăng, họ sẽ không yếu đuối và chịu nhục như Việt Nam, ít nhất họ cũng cho thấy được sức mạnh của họ. Vì sao lại có chuyện như thế?
Vì Việt Nam có 3 yếu tố chi phối mà chắc chắn là ba yếu tố này tồn tại thì Trung Quốc sẽ dễ dàng lấy từng phần lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam: Phụ thuộc và nợ nần Trung Quốc; Tham nhũng tàn bạo; Giới cầm quyền quá yếu kém và vẫn chưa thoát khỏi tình trạng dốt nát từ trung ương xuống địa phương.
Vấn đề phục thuộc và nợ nần Trung Quốc sẽ khiến cho nhà cầm quyền Việt Nam lo sợ một cuộc “bạch hóa” từ phía Trung Quốc và luôn cúi luồn Trung Quốc cho qua chuyện. Vấn đề tham nhũng đã đưa đất nước đến chỗ nghèo nàn, tiền mua khí tài và đầu tư nuôi quân, chuyên nghiệp hóa quân đội bị nuốt chừng vào túi quan tham, hệ quả là như đang thấy, khí tài Việt Nam quá lạc hậu so với Trung Quốc. Đừng nói chi đến hai chiếc tàu ngầm hạng kilo vừa mua của Nga, cả hai chục chiếc như thế cũng chưa chắc địch nổi với cả một binh chủng tàu ngầm khủng của Trung Quốc! Và tình trạng dốt từ Trung ương xuống địa phương đã không cho ra được những giải pháp khả dĩ để đánh kẻ xâm lược mà vô hình trung, sự cộng hưởng cái dốt đã đẩy bộ máy trung ương tập quyền vào cảm giác hoang mang, sợ hãi và tư thủ, chưa thấy giặc đã lo ôm tài sản cất giấu và bỏ chạy.
Vừa rồi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn khá hay, khá quyết liệt, trong đó có một ý nói lên tất cả: “Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác. Đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam. Chúng tôi đã công khai điều này rất nhiều lần với thế giới!”.
Thử hỏi: Vũ khí của Việt Nam có bao nhiêu phần trăm mua của Nga? Chắc chắc là không dưới 80%. Trong khi đó, Nga chọn đứng về phía Trung Quốc, như vậy, bí mật khí tài của Việt Nam còn ra trò trống gì nữa đối với Trung Quốc? Và một khi Việt Nam không tham gia liên minh quân sự, cũng đồng nghĩa với không bao giờ có chuyện mời Mỹ hay Nhật hay bất kì nước nào cố vấn hoặc hỗ trợ quân sự, như vậy, với vũ khí hiện tại, đánh được mấy ngày với Trung Quốc?
Và một khi kĩ thuật khí tài quá thua kém, liên minh quân sự không có, nếu đánh nhau, chỉ dựa hoàn toàn vào yếu tố con người, liệu sự gan dạ, dũng cảm và quyết tâm hy sinh cho tổ quốc của các chiến sĩ Việt Nam có ý nghĩa gì trước các khối sắt, thép biết nói chuyện của kẻ thù? Và có bao nhiêu nhân mạng con em Việt Nam mang ra để nướng trên chiến cuộc này?
Đến đây, chắc có lờ mờ cũng nhìn thấy được bức thông điệp của ông thủ tướng Dũng là gì rồi! Đừng vội mừng! Mà cần suy nghĩ nhiều hơn về cuộc cờ đầy tiền, máu và nước mắt đang sắp đến hồi cao trào này! Và đến đây, xin trả lời câu hỏi bên trên: chắc chắn có chiến tranh Việt – Trung. Và thắng thua cũng đã xếp đặt cả rồi, kẻ thắng làm gì, người thua về đâu, nghe ra cũng đã có bài bản cả rồi!
Viết từ Sài Gòn, 22/05/2014
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
VN bác bỏ Công hàm Phạm Văn Đồng
BBC-12:39 GMT - thứ sáu, 23 tháng 5, 2014
Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ giá trị pháp lý về chủ quyền của Công hàm Phạm Văn Đồng
Việt Nam nói Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền với vùng biển đảo của Việt Nam.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, nói như vậy tại cuộc họp báo quốc tế hôm 23/5 ở Hà Nội.
Những ngày vừa qua, giới ngoại giao và học giả Trung Quốc đã nhắc lại Công hàm 1958, nói đó là bằng chứng Việt Nam thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy vậy, ông Hải nói khi văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa đang được quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.
“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý,” theo ông Hải.
Ông Hải nhấn mạnh Trung Quốc “không có bất cứ chứng lý nào” chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo.
Tại cuộc họp báo, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng dẫn ra chi tiết, theo đó, ngày 24/9/1975, khi trao đổi với Bí thư Thứ nhất Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẩn, ông Đặng Tiểu Bình - Phó Thủ tướng Trung Quốc thời đó – “đã nêu rõ việc Trung Quốc có vi phạm dẫn đến tranh chấp chủ quyền với Việt Nam,” theo tường thuật của báo Dân Trí.
Lập trường của Trung Quốc hiện nay là chỉ công nhận có tranh chấp tại quần đảo Trường Sa.
Tàu quân sự
Tại cuộc họp báo ngày 23/5, Việt Nam cũng bác bỏ cáo buộc của Trung Quốc nói rằng Việt Nam gửi tàu quân sự ra khu vực Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981.
Ông Ngô Ngọc Thu, đại diện Cảnh sát Biển Việt Nam, nói chính Trung Quốc đã gửi tàu chiến ra biển.
“Tàu chiến của Trung Quốc có 5 loại, chúng tôi đã ghi được số hiệu, thông báo với phía Trung Quốc.”
“Một tàu có bệ pháo, 72.000 tấn, chở được rất nhiều quân. Có cả tàu tên lửa, một tàu tuần tiễu ngầm… Đó hoàn toàn là tàu của Trung Quốc, Việt Nam không điều tàu quân sự ở khu vực," ông Thu khẳng định.
Trước đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập khả năng sử dụng biện pháp pháp lý để kiện Trung Quốc.
Trả lời về khả năng này, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế, Bộ Ngoại giao, nói việc sử dụng biện pháp hòa bình bao gồm “sử dụng cơ quan tài phán quốc tế”.
“Chúng tôi, với tư cách cơ quan tham mưu, có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng mọi biện pháp,” bà nói.
Được hỏi liệu Việt Nam đã “hết kiên nhẫn” mặc dù có 16 chữ vàng với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải trả lời “chủ quyền lãnh thổ hết sức thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, nên không thể đánh đối được”.
“Vàng rất quý, nhưng chủ quyền quốc gia còn quý hơn vàng,” ông Hải nhấn mạnh.
Ông Hải phủ nhận thông tin trên mạng internet nói quân đội Trung Quốc đưa quân, xe tăng đến gần biên giới Việt Nam.
“Xin khẳng định hoạt động giao thương ở biên giới vẫn diễn ra bình thường.”
“Trong cuộc gặp hai thứ trưởng Bộ Ngoại giao vừa qua, hai bên đã thống nhất không sử dụng biện pháp vũ lực để giải quyết bất đồng.”
Tại cuộc họp báo, Việt Nam cũng nhắc lại con số chính thức của Việt Nam, theo đó, trong các vụ bạo loạn vừa qua, có hai người quốc tịch Trung Quốc thiệt mạng ở Hà Tĩnh, và một người Trung Quốc chết ở Bình Dương.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/05/140523_vietnam_noi_ve_congham_pvdong.shtml
Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ giá trị pháp lý về chủ quyền của Công hàm Phạm Văn Đồng
Việt Nam nói Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền với vùng biển đảo của Việt Nam.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, nói như vậy tại cuộc họp báo quốc tế hôm 23/5 ở Hà Nội.
Những ngày vừa qua, giới ngoại giao và học giả Trung Quốc đã nhắc lại Công hàm 1958, nói đó là bằng chứng Việt Nam thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy vậy, ông Hải nói khi văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa đang được quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.
“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý,” theo ông Hải.
Ông Hải nhấn mạnh Trung Quốc “không có bất cứ chứng lý nào” chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo.
Tại cuộc họp báo, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng dẫn ra chi tiết, theo đó, ngày 24/9/1975, khi trao đổi với Bí thư Thứ nhất Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẩn, ông Đặng Tiểu Bình - Phó Thủ tướng Trung Quốc thời đó – “đã nêu rõ việc Trung Quốc có vi phạm dẫn đến tranh chấp chủ quyền với Việt Nam,” theo tường thuật của báo Dân Trí.
Lập trường của Trung Quốc hiện nay là chỉ công nhận có tranh chấp tại quần đảo Trường Sa.
Tàu quân sự
Tại cuộc họp báo ngày 23/5, Việt Nam cũng bác bỏ cáo buộc của Trung Quốc nói rằng Việt Nam gửi tàu quân sự ra khu vực Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981.
Ông Ngô Ngọc Thu, đại diện Cảnh sát Biển Việt Nam, nói chính Trung Quốc đã gửi tàu chiến ra biển.
“Tàu chiến của Trung Quốc có 5 loại, chúng tôi đã ghi được số hiệu, thông báo với phía Trung Quốc.”
“Một tàu có bệ pháo, 72.000 tấn, chở được rất nhiều quân. Có cả tàu tên lửa, một tàu tuần tiễu ngầm… Đó hoàn toàn là tàu của Trung Quốc, Việt Nam không điều tàu quân sự ở khu vực," ông Thu khẳng định.
Trước đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập khả năng sử dụng biện pháp pháp lý để kiện Trung Quốc.
Trả lời về khả năng này, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế, Bộ Ngoại giao, nói việc sử dụng biện pháp hòa bình bao gồm “sử dụng cơ quan tài phán quốc tế”.
“Chúng tôi, với tư cách cơ quan tham mưu, có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng mọi biện pháp,” bà nói.
Được hỏi liệu Việt Nam đã “hết kiên nhẫn” mặc dù có 16 chữ vàng với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải trả lời “chủ quyền lãnh thổ hết sức thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, nên không thể đánh đối được”.
“Vàng rất quý, nhưng chủ quyền quốc gia còn quý hơn vàng,” ông Hải nhấn mạnh.
Ông Hải phủ nhận thông tin trên mạng internet nói quân đội Trung Quốc đưa quân, xe tăng đến gần biên giới Việt Nam.
“Xin khẳng định hoạt động giao thương ở biên giới vẫn diễn ra bình thường.”
“Trong cuộc gặp hai thứ trưởng Bộ Ngoại giao vừa qua, hai bên đã thống nhất không sử dụng biện pháp vũ lực để giải quyết bất đồng.”
Tại cuộc họp báo, Việt Nam cũng nhắc lại con số chính thức của Việt Nam, theo đó, trong các vụ bạo loạn vừa qua, có hai người quốc tịch Trung Quốc thiệt mạng ở Hà Tĩnh, và một người Trung Quốc chết ở Bình Dương.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/05/140523_vietnam_noi_ve_congham_pvdong.shtml
Còn tin vào 16 chữ vàng là lú lẫn?
Nam Nguyên, phóng viên RFA 2014-05-23
Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa)-AFP PHOTO / Mark Ralston
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã bày tỏ những quan điểm cụ thể hơn trong đối sách với Trung Quốc về Biển Đông, Việt Nam sẽ tự vệ nếu bị tấn công quân sự và không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới vùng Đông Á diễn ra ở Manila ngày 21-23/5/2014, lần đầu tiên một lãnh đạo Việt Nam xác định sát cánh cùng Philippines trong chiến dịch phản kháng Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của các nước ở khu vực Trường Sa.
Không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông
Báo chí Việt Nam và quốc tế nhanh chóng đưa tin về những phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Manila Philippines hôm 21/5. Thủ tướng Việt Nam xác định không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Được biết, trong tứ trụ lãnh đạo VN, quan điểm của ông Thủ tướng có vẻ mạnh mẽ nhất vì các lãnh đạo khác như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng vẫn còn nói về quan hệ 16 chữ vàng và 4 tốt.
Từ Hà Nội, nhà hoạt động xã hội dân sự TS Nguyễn Quang A nhận định:
Tôi thấy đó là một lời tuyên bố khá là rõ ràng của một người đứng đầu chính phủ Việt Nam, đây là một điều rất đáng hoan nghênh.
-TS Nguyễn Quang A
“Tôi thấy đó là một lời tuyên bố khá là rõ ràng của một người đứng đầu chính phủ Việt Nam, đây là một điều rất đáng hoan nghênh. Việc ông Thủ tướng tuyên bố theo tôi là đã có một quyết định tập thể nào đó ở đàng sau, còn chuyện vẫn nói tới 4 tốt 16 chữ vàng thì những người ấy chắc là đã bị ăn vào bùa lú mất rồi.”
Về quan điểm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi bị bắt buộc phải tự vệ”. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Tôi nghĩ rằng đấy cũng là một quan điểm nhất quán của chính quyền Việt Nam từ trước đến nay là Việt Nam không chủ động, không khơi mào cuộc đối đầu vũ trang, nhưng mà trường hợp bị dồn vào đến đường cùng và Việt Nam phải tự vệ. Tức là người khác khơi mào thì quyền tự vệ đó chắc chắn là một quyền hiển nhiên mà Việt Nam phải sử dụng. Tôi tin rằng bất kể người nào khác cũng phải nói như vậy chứ không chỉ một mình ông Thủ tướng.”
Theo VnExpress, Thủ tướng Việt Nam khi trả lời báo chí đã nói: Như tất cả các nước, Việt Nam đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế. Trong khi đó, hãng tin AP của Hoa Kỳ trích các nguồn tin ngoại giao Việt Nam cho biết Hà Nội sẽ khởi kiện riêng rẽ hoặc tham gia vào vụ kiện của Philippines.
Trong câu chuyện với chúng tôi TS Nguyễn Quang A bác bỏ những ý kiến cho rằng, một vụ kiện chống Trung Quốc về vụ giàn khoan Hải dương 981 sẽ mất thời giờ và không có kết quả vì Trung Quốc không tham gia và phán quyết của Tòa Trọng Tài theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 không có tính cách ràng buộc. TS Nguyễn Quang A cho rằng Việt Nam phải nhanh chóng sử dụng công cụ pháp lý. Một phán quyết của Tòa Trọng tài Tòa án Quốc tế mà bất lợi cho phía Trung Quốc sẽ có ý nghĩa rất lớn bên cạnh việc tranh thủ dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Ở đây Chính phủ Việt Nam và các chuyên gia ở Việt Nam hiểu rất rõ ràng, đây không phải là kiện về vấn đề chủ quyền. Bởi vì khi kiện về vấn đề chủ quyền thì hai bên kiện tụng đều phải công nhận quyền phán quyết của tòa án đó. Như thế đơn phương kiện thì không ai người ta giải quyết cả và ở đây không đặt vấn đề kiện về chủ quyền mà kiện cụ thể là Trung Quốc đã đặt đã cắm cái giàn khoan ấy trong vùng của Việt Nam và tòa sẽ không phán vùng ấy thuộc về Việt Nam hay Trung Quốc. Nhưng chắc chắn tòa sẽ phán nó thuộc vùng tranh chấp mà đã thuộc vùng tranh chấp mà đơn phương như thế là vi phạm rồi và dùng vũ lực nữa thì lại càng vi phạm. Ít ra có hai điểm Trung Quốc vi phạm trắng trợn thì trước mắt là kiện cái đó.”
Quyết tâm chống Trung Quốc?
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi thực hiện ngày 14/5/2014, Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên Luật quốc tế Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông nói rằng bản thân cũng ủng hộ vấn đề sử dụng công cụ pháp lý. Tuy nhiên Việt Nam cần xem việc kiện chỉ là một trong các biện pháp đối phó với Trung Quốc. Theo lời ông thời gian Việt Nam chuẩn bị hồ sơ có thể mất 1 năm cộng với thời gian từ 3 đến 4 năm chờ tòa thụ lý vụ kiện và giải quyết. Thạc sĩ Hoàng Việt tiếp lời:
Giả dụ Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc, tôi thì cũng ủng hộ vấn đề này, nhưng nếu có kiện thì nó cũng chỉ là một trong những biện pháp.
-Thạc sĩ Hoàng Việt
“Nếu trong vòng 3-4 năm như thế mà Việt nam không có một biện pháp đầu tiên thực tế để giữ được các vùng biển của mình thì khi đưa được các vụ kiện ra thì có khi Việt Nam không còn biển nữa, thực tế Trung Quốc đã chiếm rồi thì còn gì mà kiện nữa. Đấy là biện pháp đầu tiên phải tính, vậy thì kiện nên là một trong nhiều biện pháp để tác động, ở đây Việt Nam chỉ có thể theo một thủ tục giống như Philippines đã kiện Trung Quốc đó là đưa ra Tòa trọng tài thành lập theo phụ lục 7 Công ước Luật biển năm 1982. Theo đó Công ước Luật biển năm 1982 qui định vấn đề tranh chấp phải liên quan đến việc dẫn giải hoặc áp dụng bất cứ điều khoản nào của công ước. Căn cứ Philippines đưa ra dựa theo một loạt điều khoản khác nhau, trong đó đưa ra đường lưỡi bò trái nguyên tắc, rồi đưa ra một loạt vấn đề trong đó có 13 luận điểm yêu cầu 6 điểm về cấu trúc địa lý là có phù hợp hay không phù hợp điều 121 của Công ước Luật biển. Giả dụ Việt Nam kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài được thành lập theo phụ lục 7 Công ước Luật biển 1982 thì Việt Nam sẽ phải chọn một căn cứ khác chứ không phải giống như của Philippines.”
Thạc sĩ Hoàng Việt giải thích tiếp:
“Có thể nói những trường hợp thế này trên thế giới chưa có một tiền lệ nào cả và vì thế khả năng Tòa xem xét thụ lý và Tòa phán quyết có thẩm quyền hay không, thì cũng lại chưa biết chắc bởi vì còn nhiều luồng quan điểm khác nhau trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Giả dụ Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc, tôi thì cũng ủng hộ vấn đề này, nhưng nếu có kiện thì nó cũng chỉ là một trong những biện pháp, chứ nếu chỉ chăm chăm vào vụ kiện thì e rằng nó cũng có nhiều vấn đề sẽ ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia ngay lập tức và còn vụ kiện nó lại đòi hỏi khá nhiều và cho đến bây giờ vẫn còn nhiều cái chưa đảm bảo chắc chắn từ phía kiện.”
Báo chí Việt Nam đã phổ biến toàn văn phát biểu của Thủ tướng Việt Nam sau cuộc hội đàm với Tổng thống Benigno Aquino vào chiều 21/5 tại Manila. Trước đây khi Trung Quốc xâm chiếm vùng bãi Cỏ Mây của Philippines, Việt Nam và các nước ASEAN chỉ phản ứng chung chung kêu gọi các bên liên quan kiềm chế. Nhưng lần này Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam và Philippines quyết tâm chống lại hành động của Trung Quốc xâm phạm vùng biển của mình và kêu gọi các nước trên thế giới lên án hành động của Bắc Kinh. Ông nói”
“Về tình hình Biển Đông, tôi và Ngài Tổng thống cùng chia sẻ quan ngại sâu sắc về tình hình đặc biệt nguy hiểm hiện nay ở Biển Đông trước việc Trung Quốc tiến hành nhiều hành động vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, xâm phạm nghiêm trọng vùng biển của các quốc gia ven biển, nhất là vụ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và đưa nhiều tàu hộ tống bảo vệ xâm phạm sâu vào trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải tại Biển Đông.”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh Việt Nam và Philippines kiên quyết phản đối và kêu gọi các nước, cộng đồng quốc tế tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động xâm phạm nêu trên, triệt để tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và phấn đấu sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).”
Phải chăng Việt Nam đã bắt đầu thể hiện một bước lùi trong quan hệ với Trung Quốc. Tình hình Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp khó lường theo Thông điệp của Quốc hội Việt Nam phổ biến ngày 22/5. Nhưng theo giới quan sát Chính trị, trong vài trò đứng đầu chính phủ ông Nguyễn Tấn Dũng có vẻ đã vượt qua nhiều rào cản để thể hiện một thái độ rõ ràng cụ thể trước quốc tế, đó là không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông và lệ thuộc.
Trung Quốc 'đổ thêm dầu đốt cháy hòa bình ở Biển Đông'
Việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981), đưa nhiều loại tàu vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và của Việt Nam và hăm dọa, uy hiếp, tấn công các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã gây nên sự bất bình và phẫn nộ sâu sắc của giới trí thức, nhất là những người đã có nhiều năm nghiên cứu, công bố các công trình khoa học quốc tế về biển, đảo Việt Nam.
Tàu Trung Quốc hung hăng áp sát tàu Việt Nam - Ảnh: Mai Thanh Hải (Thanh Niên)
TTXVN trân trọng giới thiệu cuộc trao đổi với phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục biển và đảo Việt Nam. Ông hiện là giảng viên cao cấp của Đại học Quốc gia Hà Nội, thành viên của Diễn đàn Đại dương Thế giới.
- Phó giáo sư có thể chia sẻ cảm nhận của ông và giới nghiên cứu khoa học về biển, đảo trước việc Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm vùng biển của Việt Nam?
- Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi: Chúng tôi rất bất bình và cực lực lên án hành vi ngang ngược này của Trung Quốc. Sự bất bình này không chỉ của riêng cá nhân tôi mà cả giới trí thức Việt Nam. Ngay khi sự việc diễn ra, tập thể Ban lãnh đạo và các giảng viên của Đại học Quốc gia Hà Nội - nơi từ hàng chục năm nay chúng tôi đã gắn bó bằng nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố quốc tế về biển, đảo Việt Nam đã tập hợp nhau lại để cùng nói lên tiếng nói bất bình và kiên quyết phản đối hành vi coi thường các luật pháp và chứng cứ khoa học quốc tế; thể hiện cam kết sát cánh cùng Chính phủ đấu tranh cho công lý, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Việt Nam không phải là “nạn nhân” đơn nhất
- Là người đã nhiều năm làm công tác quản lý biển, đảo Việt Nam. Ông có bất ngờ về hành động nêu trên của Trung Quốc?
- Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi: Sự ngang ngược và trắng trợn vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc, ngay trong thế kỷ 21 - thế kỷ văn minh này khiến cho dư luận quốc tế và trong nước không tránh khỏi ngỡ ngàng. Và ngay sau sự ngỡ ngàng là quan ngại và bất bình sâu sắc. Tuy nhiên, từ góc nhìn theo chiều sâu nghiên cứu quản lý biển, chúng tôi không bất ngờ vì hành động trên chính là một bước trong tiến trình Trung Quốc thực hiện dã tâm của mình.
Để tiếp tục thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” - chấn hưng dân tộc với ý đồ “Độc chiếm Biển Đông” mà trước hết là “độc quyền khai thác tài nguyên,” Trung Quốc đã triển khai nhiều bước đi và cách tiếp cận. Đáng chú ý là họ ngang nhiên công bố ra Liên hợp quốc “Yêu sách phi lý về Đường lưỡi bò 9 đoạn đứt khúc” vào năm 2009, chiếm 80% diện tích Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia láng giềng quanh Biển Đông, trong đó có Việt Nam.
Đồng thời để chứng minh khả năng quản lý thực tế không gian đường lưỡi bò phi lý này, Trung Quốc đã triển khai hàng loạt hoạt động được che đậy và giả danh “dân sự.” Bằng cách đó Trung Quốc chiếm bãi cạn Hoàng Nham/Scarborough do Philippines tuyên bố chủ quyền năm 2012, chiếm bãi James do Malaysia tuyên bố chủ quyền năm 2013 và lần này Trung Quốc đưa giàn khoan “khủng” Hải Dương-981 xâm phạm trái phép vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đây là cách Trung Quốc cắm các “chốt” an ninh giả danh dân sự để nắn gân các nước láng giềng, để rồi sẽ “gặm nhấm dần” các các vị trí chiến lược trên Biển Đông. Như vậy, yếu tố quân sự thực tế đã được sử dụng trong hành vi của phía Trung Quốc kết hợp đe dọa sử dụng vũ lực trên thực địa.
Năm 2012, chính ông Vương Dĩ Lâm - Chủ tịch Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đã mập mờ nói: “Các giàn khoan nước sâu cỡ lớn là lãnh thổ quốc gia di động và là một vũ khí chiến lược của Trung Quốc." Và bây giờ, sự hiện diện của “lãnh thổ di động” này tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc Trung Quốc đã phát đi thông điệp: sẵn sàng xâm chiếm vùng biển của Việt Nam - một quốc gia có chủ quyền, một người bạn láng giềng truyền thống.
Rõ ràng, Trung Quốc đang có bước đi nguy hiểm, bất chấp luật pháp và công luận quốc tế, thách thức toàn thế giới. Đặc biệt, trong thời điểm các tổ chức pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đang xem xét vụ kiện về Đường lưỡi bò, thì hành động của Trung Quốc như vậy không phù hợp với “văn hóa ứng xử” của một quốc gia là thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Lấy cớ tìm dầu, Trung Quốc đang “đổ thêm dầu” đốt cháy hòa bình ở Biển Đông. Đơn phương “dương Đông, kích Tây” như vậy trong suốt thời gian dài vừa qua, Trung Quốc đang đe dọa an ninh và hòa bình không chỉ ở khu vực Biển Đông mà còn cả Hoa Đông và ASEAN.
Đối với ASEAN, Trung Quốc vi phạm công khai Tuyên bố về Ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và thể hiện không có thiện chí trong hành động với việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), thách thức mọi nỗ lực của các quốc gia ASEAN về vấn đề Biển Đông.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc đã không tôn trọng các thỏa thuận song phương và cam kết cấp cao giữa hai nước về 6 nguyên tắc trong Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh, có sự chứng kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào. Đặc biệt, cách thức hành xử kiểu “nước lớn, trịch thượng” này sẽ từng bước xói mòn tình cảm và tình hữu nghị lâu đời vốn có của nhân dân hai nước Việt-Trung.
Một nước nhỏ, để không nhỏ yếu, cần sức mạnh đại đoàn kết
- Theo phó giáo sư, Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung nên hành động như thế nào để đối phó với dã tâm độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc?
- Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi: Với tính chất và bản chất vấn đề nêu trên, Việt Nam phải kiên quyết và kiên trì giải quyết vấn đề nguy hiểm này, tiệm tiến và toàn diện. Trước hết, yêu cầu phía Trung Quốc kiềm chế, không nên đổ lỗi cho một nước bé khi mình là nước lớn; dừng ngay những hành động hung hăng đâm va tàu chấp pháp của Việt Nam; ngồi vào bàn đàm phán theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”; đừng để phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” trở thành những khẩu hiệu đầu lưỡi.
Phía Trung Quốc không nên để một việc làm không có giá trị pháp lý quốc tế, không phù hợp với xu thế của khu vực và truyền thống hữu nghị hai nước Việt-Trung như vậy tồn tại lâu. Đừng biến Trung Quốc xã hội chủ nghĩa thành “Đế quốc kiểu mới” trong thế kỷ 21 ở Biển Đông với một ấn tượng xấu “vừa ăn cướp, vừa la làng.”
Việt Nam chúng ta - một nước nhỏ, để nhỏ mà không yếu thì rất cần sức mạnh đại đoàn kết. Hành vi sai trái của phía Trung Quốc bộc lộ quá rõ ràng, thách thức toàn thế giới, gây bất ổn định khu vực. Thái độ của Chính phủ Việt Nam cũng thể hiện kịp thời, kiên quyết và rõ ràng. Tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam đang có những bước đi cần thiết. Hơn lúc nào hết, người Việt Nam trong và ngoài nước, người dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới hãy sát cánh, làm rõ âm mưu, thủ đoạn ngang ngược của phía Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề ở Biển Đông nói chung và đối với Việt Nam nói riêng.
Tôi cho rằng đây là dịp Việt Nam nên “biến thách thức thành cơ hội”: xem xét lại quan hệ với Trung Quốc; sát cánh cùng các nước ASEAN, vì Việt Nam không phải là “nạn nhân” đơn nhất của các thế lực chính trị cường quyền trong khu vực; xây dựng quan hệ đối tác mới trong khu vực Đông Á và trên thế giới để cùng nhau bảo vệ biển, phát triển bền vững đất nước trong dài hạn.
Mặt khác, cần tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ bản chất vấn đề, hiến kế và ủng hộ chủ trương giải quyết của Chính phủ, lên án những hành vi sai trái, đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực của phía Trung Quốc; đưa những hình ảnh bằng chứng về sự hung hăng, ngang ngược cho cộng đồng thế giới biết.
Ngoài ra, kiên định tiếp cận các giải pháp hòa bình nhưng không từ bỏ quyền tự vệ chính đáng theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Đặc biệt, chúng ta nên có thư chính thức thông báo cho Tổng thư ký Liên hợp quốc và bảo lưu như một văn bản pháp lý theo tập quán luật pháp quốc tế.
- Xin cảm ơn phó giáo sư Nguyễn Chu Hồi về cuộc trò chuyện!
24/05/2014 08:40
Theo TTXVN
Tàu Trung Quốc hung hăng áp sát tàu Việt Nam - Ảnh: Mai Thanh Hải (Thanh Niên)
TTXVN trân trọng giới thiệu cuộc trao đổi với phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục biển và đảo Việt Nam. Ông hiện là giảng viên cao cấp của Đại học Quốc gia Hà Nội, thành viên của Diễn đàn Đại dương Thế giới.
- Phó giáo sư có thể chia sẻ cảm nhận của ông và giới nghiên cứu khoa học về biển, đảo trước việc Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm vùng biển của Việt Nam?
- Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi: Chúng tôi rất bất bình và cực lực lên án hành vi ngang ngược này của Trung Quốc. Sự bất bình này không chỉ của riêng cá nhân tôi mà cả giới trí thức Việt Nam. Ngay khi sự việc diễn ra, tập thể Ban lãnh đạo và các giảng viên của Đại học Quốc gia Hà Nội - nơi từ hàng chục năm nay chúng tôi đã gắn bó bằng nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố quốc tế về biển, đảo Việt Nam đã tập hợp nhau lại để cùng nói lên tiếng nói bất bình và kiên quyết phản đối hành vi coi thường các luật pháp và chứng cứ khoa học quốc tế; thể hiện cam kết sát cánh cùng Chính phủ đấu tranh cho công lý, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Việt Nam không phải là “nạn nhân” đơn nhất
- Là người đã nhiều năm làm công tác quản lý biển, đảo Việt Nam. Ông có bất ngờ về hành động nêu trên của Trung Quốc?
- Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi: Sự ngang ngược và trắng trợn vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc, ngay trong thế kỷ 21 - thế kỷ văn minh này khiến cho dư luận quốc tế và trong nước không tránh khỏi ngỡ ngàng. Và ngay sau sự ngỡ ngàng là quan ngại và bất bình sâu sắc. Tuy nhiên, từ góc nhìn theo chiều sâu nghiên cứu quản lý biển, chúng tôi không bất ngờ vì hành động trên chính là một bước trong tiến trình Trung Quốc thực hiện dã tâm của mình.
Để tiếp tục thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” - chấn hưng dân tộc với ý đồ “Độc chiếm Biển Đông” mà trước hết là “độc quyền khai thác tài nguyên,” Trung Quốc đã triển khai nhiều bước đi và cách tiếp cận. Đáng chú ý là họ ngang nhiên công bố ra Liên hợp quốc “Yêu sách phi lý về Đường lưỡi bò 9 đoạn đứt khúc” vào năm 2009, chiếm 80% diện tích Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia láng giềng quanh Biển Đông, trong đó có Việt Nam.
Đồng thời để chứng minh khả năng quản lý thực tế không gian đường lưỡi bò phi lý này, Trung Quốc đã triển khai hàng loạt hoạt động được che đậy và giả danh “dân sự.” Bằng cách đó Trung Quốc chiếm bãi cạn Hoàng Nham/Scarborough do Philippines tuyên bố chủ quyền năm 2012, chiếm bãi James do Malaysia tuyên bố chủ quyền năm 2013 và lần này Trung Quốc đưa giàn khoan “khủng” Hải Dương-981 xâm phạm trái phép vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đây là cách Trung Quốc cắm các “chốt” an ninh giả danh dân sự để nắn gân các nước láng giềng, để rồi sẽ “gặm nhấm dần” các các vị trí chiến lược trên Biển Đông. Như vậy, yếu tố quân sự thực tế đã được sử dụng trong hành vi của phía Trung Quốc kết hợp đe dọa sử dụng vũ lực trên thực địa.
Năm 2012, chính ông Vương Dĩ Lâm - Chủ tịch Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đã mập mờ nói: “Các giàn khoan nước sâu cỡ lớn là lãnh thổ quốc gia di động và là một vũ khí chiến lược của Trung Quốc." Và bây giờ, sự hiện diện của “lãnh thổ di động” này tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc Trung Quốc đã phát đi thông điệp: sẵn sàng xâm chiếm vùng biển của Việt Nam - một quốc gia có chủ quyền, một người bạn láng giềng truyền thống.
Rõ ràng, Trung Quốc đang có bước đi nguy hiểm, bất chấp luật pháp và công luận quốc tế, thách thức toàn thế giới. Đặc biệt, trong thời điểm các tổ chức pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đang xem xét vụ kiện về Đường lưỡi bò, thì hành động của Trung Quốc như vậy không phù hợp với “văn hóa ứng xử” của một quốc gia là thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Lấy cớ tìm dầu, Trung Quốc đang “đổ thêm dầu” đốt cháy hòa bình ở Biển Đông. Đơn phương “dương Đông, kích Tây” như vậy trong suốt thời gian dài vừa qua, Trung Quốc đang đe dọa an ninh và hòa bình không chỉ ở khu vực Biển Đông mà còn cả Hoa Đông và ASEAN.
Đối với ASEAN, Trung Quốc vi phạm công khai Tuyên bố về Ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và thể hiện không có thiện chí trong hành động với việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), thách thức mọi nỗ lực của các quốc gia ASEAN về vấn đề Biển Đông.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc đã không tôn trọng các thỏa thuận song phương và cam kết cấp cao giữa hai nước về 6 nguyên tắc trong Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh, có sự chứng kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào. Đặc biệt, cách thức hành xử kiểu “nước lớn, trịch thượng” này sẽ từng bước xói mòn tình cảm và tình hữu nghị lâu đời vốn có của nhân dân hai nước Việt-Trung.
Một nước nhỏ, để không nhỏ yếu, cần sức mạnh đại đoàn kết
- Theo phó giáo sư, Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung nên hành động như thế nào để đối phó với dã tâm độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc?
- Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi: Với tính chất và bản chất vấn đề nêu trên, Việt Nam phải kiên quyết và kiên trì giải quyết vấn đề nguy hiểm này, tiệm tiến và toàn diện. Trước hết, yêu cầu phía Trung Quốc kiềm chế, không nên đổ lỗi cho một nước bé khi mình là nước lớn; dừng ngay những hành động hung hăng đâm va tàu chấp pháp của Việt Nam; ngồi vào bàn đàm phán theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”; đừng để phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” trở thành những khẩu hiệu đầu lưỡi.
Phía Trung Quốc không nên để một việc làm không có giá trị pháp lý quốc tế, không phù hợp với xu thế của khu vực và truyền thống hữu nghị hai nước Việt-Trung như vậy tồn tại lâu. Đừng biến Trung Quốc xã hội chủ nghĩa thành “Đế quốc kiểu mới” trong thế kỷ 21 ở Biển Đông với một ấn tượng xấu “vừa ăn cướp, vừa la làng.”
Việt Nam chúng ta - một nước nhỏ, để nhỏ mà không yếu thì rất cần sức mạnh đại đoàn kết. Hành vi sai trái của phía Trung Quốc bộc lộ quá rõ ràng, thách thức toàn thế giới, gây bất ổn định khu vực. Thái độ của Chính phủ Việt Nam cũng thể hiện kịp thời, kiên quyết và rõ ràng. Tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam đang có những bước đi cần thiết. Hơn lúc nào hết, người Việt Nam trong và ngoài nước, người dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới hãy sát cánh, làm rõ âm mưu, thủ đoạn ngang ngược của phía Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề ở Biển Đông nói chung và đối với Việt Nam nói riêng.
Tôi cho rằng đây là dịp Việt Nam nên “biến thách thức thành cơ hội”: xem xét lại quan hệ với Trung Quốc; sát cánh cùng các nước ASEAN, vì Việt Nam không phải là “nạn nhân” đơn nhất của các thế lực chính trị cường quyền trong khu vực; xây dựng quan hệ đối tác mới trong khu vực Đông Á và trên thế giới để cùng nhau bảo vệ biển, phát triển bền vững đất nước trong dài hạn.
Mặt khác, cần tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ bản chất vấn đề, hiến kế và ủng hộ chủ trương giải quyết của Chính phủ, lên án những hành vi sai trái, đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực của phía Trung Quốc; đưa những hình ảnh bằng chứng về sự hung hăng, ngang ngược cho cộng đồng thế giới biết.
Ngoài ra, kiên định tiếp cận các giải pháp hòa bình nhưng không từ bỏ quyền tự vệ chính đáng theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Đặc biệt, chúng ta nên có thư chính thức thông báo cho Tổng thư ký Liên hợp quốc và bảo lưu như một văn bản pháp lý theo tập quán luật pháp quốc tế.
- Xin cảm ơn phó giáo sư Nguyễn Chu Hồi về cuộc trò chuyện!
24/05/2014 08:40
Theo TTXVN
Tranh chấp biển đảo: Tư lệnh Mỹ tố cáo chiến lược « ăn cả » của Trung Quốc
Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại vùng Thái Bình Dương-REUTERS
Trọng Nghĩa
Nhân một diễn đàn về an ninh châu Á mở ra hôm nay, 23/05/2014 tại Manila, Tư lệnh lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương đã nhấn mạnh nhu cầu thỏa hiệp và đối thoại giữa các bên có tranh chấp lãnh thổ tại các vùng biển Châu Á. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền đang căng thẳng giữa Trung Quốc với các láng giềng Việt Nam, Philippines và Nhật Bản tại Biển Đông và Hoa Đông, Đô đốc Samuel Locklear đã lên tiếng cảnh báo chống lại chiến lược được ông gọi là « ăn cả (winner-take-all) » hay là độc chiếm mà nhiều nước cho là Bắc Kinh đang sử dụng.
Là diễn giả trong phiên họp về chủ đề an ninh châu Á trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Thế giới khu vực Đông Á, tổ chức ở Manila, chỉ huy trưởng Hạm đội Mỹ vùng Thái Bình Dương đã thẩm định rằng châu Á đang biến thành một khu vực bị « quân sự hóa mạnh nhất » trên thế giới hiện nay, đồng thời là vùng có tăng trưởng kinh tế rất nhanh. Tình hình đó nêu bật tầm quan trọng của đối thoại để đảm bảo sao cho tranh chấp không dẫn đến xung đột vũ trang.
Sau khi cho rằng : « Điều quan trọng nhất là ý chí tôn trọng các quy định của luật pháp, tham gia các diễn đàn quốc tế để giải quyết các vấn đề và giải quyết tranh chấp… », Đô đốc Locklear kết luận : « Ta không thể có một thái độ người thắng ăn cả. (Giải pháp cho tranh chấp) sẽ đòi hỏi sự thỏa hiệp, sẽ đòi hỏi đối thoại ».
Trong phát biểu của mình, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại vùng Thái Bình Dương đã nói đến một loạt những tranh chấp chủ quyền khác nhau ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, tồn tại từ hàng chục năm nay, nhưng đã căng thẳng hẳn lên trong thời gian gần đây trước các hành động bị đánh giá là ngày càng quyết đoán của Trung Quốc.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, ngay cả tại các vùng biển cách xa đất liền Trung Quốc cả ngàn cây số và nằm sát bờ biển của các nước láng giềng như Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Sau những chỉ trích của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Đô đốc Locklear dĩ nhiên đã lên tiếng bảo vệ nỗ lực của Mỹ trong việc xây dựng các liên minh an ninh ở châu Á, kể cả với các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Đối với vị Tư lệnh Mỹ, các liên minh, đó, mà một số có từ cuối Đệ nhị Thế chiến, đã bảo đảm cho an ninh toàn khu vực, và góp phần giúp khu vực cường thịnh về kinh tế. Theo ông chính Trung Quốc cũng được hưởng lợi nhờ tình hình an ninh đó, chứ không riêng gì Hoa Kỳ.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140523-tu-lenh-ham-doi-my-vung-thai-binh-duong-to-cao-chien-luoc-%C2%AB-an-ca-%C2%BB-trong-tranh-chap
Trung Quốc cảnh cáo Nhật: đừng can dự vào biển Đông
(TNO) Trung Quốc vào ngày 23.5 đã lên tiếng cảnh cáo Nhật Bản tránh xa tranh chấp chủ quyền của Bắc Kinh với các nước láng giềng ở biển Đông, một ngày sau khi thủ tướng Nhật nói ông lo ngại căng thẳng trong khu vực sẽ leo thang vì “vụ đơn phương khoan dầu” của Trung Quốc tại vùng biển Việt Nam.
Tàu tuần duyên Trung Quốc đang canh phòng xung quanh giàn khoan Hải Dương -981 trong vùng biển Việt Nam - Ảnh: Reuters
“Phát biểu của phía Nhật phớt lờ hiện thực và làm rối các chân lý, đồng thời có động cơ chính trị nhằm can thiệp vào tình hình biển Đông với một mục đích bí mật”, Reuters dẫn lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi.
“Chúng tôi yêu cầu phía Nhật nên có những hành động thiết thực để bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực”, ông Hồng nói.
Đầu tháng 5, Trung Quốc đã ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương-981 vào trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Bất chấp sự chỉ trích của nhiều nước trên thế giới, hiện Bắc Kinh vẫn cho duy trì hàng trăm tàu thuyền, gồm cả tàu chiến lẫn tàu tuần duyên, trong vùng biển Việt Nam để bảo vệ cho hoạt động trái phép của giàn khoan này.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe vào hôm 15.5 đã lên tiếng chỉ trích sự bành trướng quân đội và những hành động gây hấn của Trung Quốc, cho rằng những động thái này chỉ làm gia tăng căng thẳng ở biển Hoa Đông và biển Đông, theo hãng tin Jiji (Nhật Bản).
Tờ Minh Báo (Hồng Kông) hồi 12.5 nhận định rằng Nhật Bản có thể đang hướng tới việc thành lập khối đồng minh với Việt Nam và Philippines nhằm phản đối những tuyên bố chủ quyền lãnh thổ phi lý của Trung Quốc.
23/05/2014 17:00
Hoàng Uy
Tàu tuần duyên Trung Quốc đang canh phòng xung quanh giàn khoan Hải Dương -981 trong vùng biển Việt Nam - Ảnh: Reuters
“Phát biểu của phía Nhật phớt lờ hiện thực và làm rối các chân lý, đồng thời có động cơ chính trị nhằm can thiệp vào tình hình biển Đông với một mục đích bí mật”, Reuters dẫn lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi.
“Chúng tôi yêu cầu phía Nhật nên có những hành động thiết thực để bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực”, ông Hồng nói.
Đầu tháng 5, Trung Quốc đã ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương-981 vào trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Bất chấp sự chỉ trích của nhiều nước trên thế giới, hiện Bắc Kinh vẫn cho duy trì hàng trăm tàu thuyền, gồm cả tàu chiến lẫn tàu tuần duyên, trong vùng biển Việt Nam để bảo vệ cho hoạt động trái phép của giàn khoan này.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe vào hôm 15.5 đã lên tiếng chỉ trích sự bành trướng quân đội và những hành động gây hấn của Trung Quốc, cho rằng những động thái này chỉ làm gia tăng căng thẳng ở biển Hoa Đông và biển Đông, theo hãng tin Jiji (Nhật Bản).
Tờ Minh Báo (Hồng Kông) hồi 12.5 nhận định rằng Nhật Bản có thể đang hướng tới việc thành lập khối đồng minh với Việt Nam và Philippines nhằm phản đối những tuyên bố chủ quyền lãnh thổ phi lý của Trung Quốc.
23/05/2014 17:00
Hoàng Uy
Vụ tự thiêu chống Trung Quốc đầu tiên tại Việt Nam : Ngọn đuốc trước cơn nguy biến của dân tộc
Lá thư tuyệt mệnh của bà Lê Thị Tuyết Mai, với nội dung chống Trung Quốc xâm lược.
thanhnien.com.vn
Sáng sớm hôm nay 23/05/2014 một phụ nữ đã tự thiêu trước Dinh Thống nhất (tức Dinh Độc lập trước đây) ở Saigon. Theo thông cáo của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, người tự thiêu là bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, pháp danh Đồng Xuân, huynh trưởng miền Quảng Đức thuộc giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tự thiêu để phản đối Trung Quốc xâm lược Biển Đông.
Báo Thanh Niên cho biết người tự thiêu để lại các biểu ngữ với nội dung yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển đảo Việt Nam, đề nghị đoàn kết chống xâm lăng. Các bảo vệ của Dinh Thống nhất đã nhanh chóng dùng bình chữa cháy để dập lửa. Khoảng ba phút sau ngọn lửa được dập tắt, nhưng người phụ nữ đã tử vong.
Các biểu ngữ mang dòng chữ : « Yêu cầu đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc », « Ủng hộ cảnh sát biển và ngư dân Việt Nam », « Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Việt Nam », « Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước », « Xưa kia cho Bà Trưng và Bà Triệu đứng lên đánh giặc ».
Đây là vụ tự thiêu chống Trung Quốc lần đầu tiên tại Việt Nam, từ trước đến nay thế giới chỉ biết đến các vụ tự thiêu ở Tây Tạng chống lại sự đô hộ của Bắc Kinh.
Bản tin của hãng thông tấn Pháp AFP hôm nay mang tựa đề « Một phụ nữ Việt Nam tự thiêu để phản đối Trung Quốc », nêu chi tiết công an tìm thấy tại hiện trường một can xăng và một lá thư, trong đó bà Lê Thị Tuyết Mai bày tỏ sự phẫn nộ trước giàn khoan Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam, đòi hỏi Bắc Kinh phải rút giàn khoan này đi. Một video ghi lại vụ tự thiêu này đã được đưa lên YouTube.
RFI Việt ngữ phỏng vấn hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh về sự kiện này.
Các biểu ngữ mang dòng chữ : « Yêu cầu đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc », « Ủng hộ cảnh sát biển và ngư dân Việt Nam », « Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Việt Nam », « Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước », « Xưa kia cho Bà Trưng và Bà Triệu đứng lên đánh giặc ».
Đây là vụ tự thiêu chống Trung Quốc lần đầu tiên tại Việt Nam, từ trước đến nay thế giới chỉ biết đến các vụ tự thiêu ở Tây Tạng chống lại sự đô hộ của Bắc Kinh.
Bản tin của hãng thông tấn Pháp AFP hôm nay mang tựa đề « Một phụ nữ Việt Nam tự thiêu để phản đối Trung Quốc », nêu chi tiết công an tìm thấy tại hiện trường một can xăng và một lá thư, trong đó bà Lê Thị Tuyết Mai bày tỏ sự phẫn nộ trước giàn khoan Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam, đòi hỏi Bắc Kinh phải rút giàn khoan này đi. Một video ghi lại vụ tự thiêu này đã được đưa lên YouTube.
RFI Việt ngữ phỏng vấn hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh về sự kiện này.
RFI : Kính chào hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Saigon. Thưa thầy, hôm này vừa có sự kiện một phật tử tự thiêu chống Trung Quốc xâm lược ?
Hòa thượng Thích Không Tánh : Dạ thưa, đúng vậy đó cô. Chúng tôi ngay từ sáng sớm hôm nay đã được tin. Quý anh em huynh trưởng Phật tử có báo cho chúng tôi, vì chúng tôi thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và trước đây là Chánh đại diện của miền Quảng Đức. Mà cô Lê Thị Tuyết Mai, pháp danh Đồng Xuân là một huynh trưởng cấp Tấn, và là Phó trưởng ban hướng dẫn của Gia đình Phật tử miền Quảng Đức.
Hồi sáng tới giờ cũng đang cố gắng kiếm cách để tổ chức cúng lễ và cầu nguyện. Nhưng công an họ bao vây rất kỹ lưỡng, nên không thể nào đến gần được. Họ cũng làm khó dễ cả nơi gia đình, và thân nhân cũng rất sợ. Cho nên bên này chúng tôi cũng không biết làm sao. Thành thử quý huynh trưởng Phật tử cũng chỉ hết lòng kính cầu nguyện thôi.
Mong rằng chí nguyện mà do đó cổ đã tự thiêu được thành tựu, chứ hiện tại chúng tôi cũng có rất nhiều nỗi đau khổ, và cũng chỉ biết cầu nguyện vậy thôi, vì bị cô lập và phong tỏa rất chặt chẽ.
RFI : Thưa thầy, vì sao phật tử Lê Thị Tuyết Mai lại lấy thân mình làm đuốc ?
Cô vốn là một huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam thuộc hệ thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, huynh trưởng cấp Tấn. Cô vẫn thường sinh hoạt với chúng tôi. Tinh thần của cô với đạo pháp và đất nước rất cao, bởi vì đa phần quý huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam mà vào cấp Tấn đổ lên, tâm nguyện và hạnh nguyện, tinh thần đối với đạo pháp và dân tộc rất cao.
Cho nên cô rất buồn trước việc Trung Cộng xâm lấn thềm lục địa, đặt giàn khoan HD-981 vào trong vùng biển của Việt Nam. Rõ ràng là Trung Cộng đã xâm lấn hẳn, hoàn toàn vào trong thềm lục địa của mình, vùng biển của mình !
Bà con ngư dân ở Quảng Ngãi ngày xưa ra vùng đó để đánh bắt cá, thì bây giờ không ra tới đó được nữa, chỉ còn ở gần trong này thôi, giàn khoan đó vào rất gần. Và trước chủ trương lấn chiếm biển của họ - trước đây họ đã lấy thác Bản Giốc, Ải Nam Quan rồi cả những khu vực khác nữa – giờ đây họ muốn chiếm trọn vùng biển đó. Cho nên người dân nào suốt thời gian qua cũng rất đau khổ trước việc xâm lược của Trung Cộng.
Là một huynh trưởng của Gia đình Phật tử, nên cô cũng ý thức được tình cảnh quê hương đất nước bị xâm lấn như vậy. Cô nguyện tự thiêu để làm sao bảo toàn được sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải ; cúng dường chư Phật để nói lên tiếng nói của người huynh trưởng một lòng gắn bó với đạo pháp và dân tộc. Trước nguy biến của đất nước, trước sự xâm lược của Trung Cộng, cô đã nguyện làm một ngọn đuốc, hy vọng có thể cảnh tỉnh chế độ trước nạn ngoại xâm cũng như nội xâm, để góp phần bảo vệ quê hương Tổ quốc, dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta.
RFI : Về ý định tự thiêu của bà Tuyết Mai, các đồng đạo hay giáo hội có biết hay không ?
Cô ấy giữ kín, bởi vì để lộ ra thì không cách nào thực hiện được. Thành thử bất ngờ vào lúc mờ mờ sáng, khoảng năm giờ hơn thì cô một mình tự đến trước Dinh Độc lập tức Dinh Tổng thống ngày xưa của Việt Nam Cộng Hòa. Cô tự thiêu, và để lại những văn thơ, giấy tờ ở trong giỏ xách, nhưng có lẽ bây giờ Nhà nước người ta đã lấy hết rồi. Cho nên có nhiều chuyện mình nắm không rõ hết được.
Chỉ biết rằng nội dung là cô một lòng đối với giáo hội, đối với dân tộc, nên trước tình cảnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị chế độ đặt ra ngoài vòng pháp luật không cho sinh hoạt. Từ lâu cô vẫn sinh hoạt theo hệ thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhưng Nhà nước nhiều lần cấm đoán, nên cô cho chúng tôi biết rằng cô rất buồn.
Hồi trước người chồng của cô cũng là huynh trưởng cấp Tấn, trưởng ban hướng dẫn của Gia đình Phật tử miền Quảng Đức. Huynh trưởng này hết lòng đối với đạo pháp, và giờ đã khuất bóng lâu rồi. Cô (Tuyết Mai) nguyện trung thành theo đường lối của đạo pháp, dân tộc ; không biết nghĩ sao mà hôm nay cô lại thiêu thân để cúng dường, thì chúng ta cũng hết lòng cầu nguyện cho cô.
Người Phật tử bắt đầu là một đoàn sinh lúc còn trẻ, và khi đã qua hết hệ thống, học những khóa đào tạo rồi sinh hoạt…muốn lên cấp Tấn thì phải trên mười năm. Phải đi qua cấp Tín rồi cấp Tập, để lên đến cấp Tấn phải tu học cũng như có công hạnh, trình độ, đã điều khiển đoàn sinh và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể trẻ của Phật tử.
RFI : Thưa thầy, trước hành động xâm lăng của Trung Quốc tại Biển Đông, quan điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như thế nào ? Được biết Đức Tăng thống Thích Quảng Độ có ra thông cáo về vấn đề này ?
Xin thưa, Đức đệ ngũ Tăng thống trước tình cảnh Trung Cộng xâm lấn, đặt giàn khoan ở thềm lục địa thuộc vùng biển của Việt Nam, ngài có ra một kháng thư để nói lên cho thế giới biết. Đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất xuyên suốt từ xưa tới giờ là phải gắn liền với đạo pháp và dân tộc, cho nên ngài đã ra thông báo đó. Đồng thời cũng lên án Trung Cộng đã xâm lược.
Thật ra trước đây, cả mười mấy năm trước, trước nạn Hán hóa xâm lược của Trung Cộng, giáo hội đã từng lên tiếng nhiều lần và có nhiều văn kiện chứ không phải mới đây. Gần đây khi họ đặt giàn khoan HD-981, ngài cũng ra thông cáo đó để cảnh tỉnh, đồng thời nói lên lập trường là Việt Nam phải có dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, tín ngưỡng, người dân phải có được các quyền, thì may ra mới có thể bảo toàn được lãnh thổ, lãnh hải trước việc chúng ta vừa bị nạn nội xâm lẫn ngoại xâm.
RFI : Theo thông cáo, trong mấy tuần nay có những huynh trưởng gởi thư phát nguyện tự thiêu phản đối Trung Quốc xâm lược, như đã diễn ra ở Tây Tạng. Quan niệm của giáo hội về vấn đề này ra sao ?
Thưa, đứng về phía giáo hội và theo chúng tôi được biết là vào năm 1963, khi ấy có cả mười mấy vị làm đơn để xin tự thiêu trước việc Phật giáo bị kỳ thị và đàn áp, nhưng các ngài đứng đầu giáo hội không đồng ý. Dầu rằng các vị đó có hạnh nguyện cao cả như vậy, nhưng giáo hội không bao giờ đồng ý đâu.
Cho nên lúc bấy giờ như ngài Quảng Đức, các thánh tử đạo tự phát nguyện và làm như vậy thôi, để cúng dường và nói lên tấm lòng của mình, chứ không phải giáo hội đồng ý chuyện đó. Lúc nào giáo hội cũng trên tinh thần từ bi, bảo toàn sinh mạng của mỗi người.
Theo truyền thống, đạo lý của Việt Nam mình và đối với đạo Phật, người ta nếu có ý nguyện đó, tất nhiên theo trong kinh thì các vị bồ tát đôi khi có thể phát nguyện tự thiêu để cúng dường, để nói lên hạnh nguyện của mình. Nhưng các vị lãnh đạo Phật giáo không thể nào đồng ý như vậy đâu, lúc nào cũng khuyên bảo toàn. Nếu họ có lòng phát nguyện, đại nguyện như thế thì chúng ta chỉ hết lòng cầu nguyện và khâm phục thôi, chứ còn mạng sống con người là trên hết, sự sống là trên hết.
Bởi vì Đức Phật thể hiện ở thế gian này là ngài đem sự sống, đem hòa bình và tình thương đến cho nhân loại và muôn loài, bảo toàn sự sống và hạnh phúc của nhân loại.
RFI : RFI Việt ngữ xin rất cảm ơn hòa thượng Thích Không Tánh, nguyên Chánh đại diện miền Quảng Đức thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã vui lòng trả lời phỏng vấn hôm nay của chúng tôi.