Tuesday, May 20, 2014
Tình báo Trung Quốc giật dây các vụ cướp phá nhân biểu tình tại Việt Nam ?
Người biểu tình Việt Nam đập pháp contener của hãng Đài Loan Asama. Ảnh ngày 16/05/2014.REUTERS/Stringer
Bên lề các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam trung tuần tháng Năm vừa qua, đã có những vụ phá phách, đốt phá, hôi của, hành hung, như ở Binh Dương hay Hà Tĩnh, nhắm vào các cơ sở không chỉ của Trung Quốc mà cả của Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia. Dụng tâm cố ý làm hoen ố hình ảnh của phong trào chống Trung Quốc xâm lược, cũng như tính chất có tổ chức của những kẻ gây rối đã đặt ra câu hỏi : Ai đứng phía sau các thành phần côn đồ đó ?
Người biểu tình Việt Nam đập pháp contener của hãng Đài Loan Asama. Ảnh ngày 16/05/2014.REUTERS/Stringer
Một câu trả lời : Đó là tình báo Trung Quốc tại Việt Nam. Có lập luận cho rằng bên kích động phá phách là một phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam, muốn gây rối loạn để thừa nước đục thả câu. Tuy nhiên, trả lời phỏng vấn của RFI, ông Ngô Nhân Dụng, bình luận gia báo Người Việt tại California (Hoa Kỳ) đã bác bỏ giả thuyết này để cho rằng kẻ được lợi từ tình hình rối loạn nẩy sinh nhân các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam chính là Bắc Kinh, và giả thuyết tình báo Trung Quốc can dự vào các chuyện tồi tệ đó rất có lý.Phân tích của nhà báo Ngô Nhân Dụng.
http://telechargement.rfi.fr/rfi/vietnamien/audio/modules/actu/201405/QR_NGO_NHAN_DUNG.mp3
Một câu trả lời : Đó là tình báo Trung Quốc tại Việt Nam. Có lập luận cho rằng bên kích động phá phách là một phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam, muốn gây rối loạn để thừa nước đục thả câu. Tuy nhiên, trả lời phỏng vấn của RFI, ông Ngô Nhân Dụng, bình luận gia báo Người Việt tại California (Hoa Kỳ) đã bác bỏ giả thuyết này để cho rằng kẻ được lợi từ tình hình rối loạn nẩy sinh nhân các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam chính là Bắc Kinh, và giả thuyết tình báo Trung Quốc can dự vào các chuyện tồi tệ đó rất có lý.Phân tích của nhà báo Ngô Nhân Dụng.
Vì sao Trung Quốc gây hấn với hầu hết các nước láng giềng?
(ĐSPL) - Một câu hỏi luôn ám ảnh các nhà quan sát chính sách ngoại giao của Bắc Kinh: Vì sao Trung Quốc lại gây hấn với hầu hết các nước láng giềng?
Nhà phân tích Brad Glosserman - giám đốc điều hành Diễn đàn Thái Bình Dương của Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS).
Trong bài viết đăng trên The National Interest ngày 20/5, nhà phân tích Brad Glosserman - giám đốc điều hành Diễn đàn Thái Bình Dương của Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) - nhận định: Trong nhiều năm liền, Bắc Kinh đã nghe theo lời dạy “giấu mình, chờ thời” của cố lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Điều này được thể hiện qua chính sách ngoại giao “nụ cười” của những năm 1990. Trong những năm đó, Trung Quốc đã phân định đường biên giới trên đất liền với nhiều nước láng giềng và theo đuổi giải pháp phát triển “đôi bên cùng có lợi”.
Sau đó, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên gây gổ hơn, với việc Trung Quốc công khai “cưỡng bức” và đẩy Philippines ra khỏi vùng nhiều vùng biển tranh chấp và thúc ép Tokyo thừa nhận có tranh chấp đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vốn thuộc quyền quản lý của Nhật Bản trên thực tế.
Tuy nhiên, chỉ gây sự với Manila và Tokyo là chưa đủ, Bắc Kinh còn đưa giàn khoan dầu Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou 981) vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam hồi đầu tháng này. Để hỗ trợ cho hành động xâm lấn nói trên, Trung Quốc còn cử hàng trăm tàu - trong đó có cả tàu chiến – vào vùng biển Việt Nam để “bảo vệ”, một sự leo thang đáng kể xét về khía cạnh tham gia của giới quân sự trong tranh chấp lãnh thổ.
Trước đó, Trung Quốc đã ngang nhiên đưa nhiều tàu vào vùng biển mà Malaysia tuyên bố chủ quyền và chỉ trích nỗ lực tìm kiếm chuyến bay MH370 mất tích của Malaysia Airlines, trên đó có hơn 150 công dân Trung Quốc. Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển gần Indonesia, đẩy Jakarta khỏi lập trường trung lập và trở nên cứng rắn hơn trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Và gần đây nhất, tin tức báo chí cho hay nhiều tàu Trung Quốc đã lợi dụng việc Cảnh sát biển Hàn Quốc bị bận rộn bởi thảm họa chìm phà Sewol để xâm nhập vùng biển Hàn Quốc để đánh bắt cá bất hợp pháp.
Trong khi đó, Trung Quốc đang cố tìm cách duy trì ảnh hưởng tại Myanmar, thậm chí bằng cách cung cấp vũ khí cho các nhóm nổi dậy chống chính phủ nước này.
Trong khi đó, Trung Quốc phải đối mặt với nhiều vấn đề trong nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình ổn định để nước này có thể tập trung giải quyết những vấn đề đang ngày càng trở nên nhức nhối. Trước tiên, vấn nạn tham nhũng đang đe dọa tính chính đáng của chính quyền. Tập Cận Bình đã nhận ra vấn đề, nhưng chiến dịch chống tham nhũng của ông ta đang đe dọa phân hóa ĐCS Trung Quốc. Nền kinh tế Trung Quốc đã chững lại sau nhiều thập kỷ tăng trưởng hai con số. Nền kinh tế đó cần phải điều chỉnh, đi kèm với những lo ngại về khu vực tài chính khốn khổ với nhiều bong bóng bất động sản. Ô nhiễm không khí, nước và ô đất đai đã lên tới mức đe dọa khả năng tồn tại của nhà nước. Tình trạng khủng bố gia tăng ở trong nước một phần có liên quan đến chính sách mạnh tay của Bắc Kinh đối với các cộng đồng thiểu số. Tình trạng bất ổn liên miên – với 200.000 vụ mỗi năm – đã khiến cho ngân sách dành cho Cảnh sát vũ trang lớn hơn cả ngân sách dành cho quân đội. Trong môi trường bất ổn này, việc Trung Quốc tìm cách gây gổ với rất nhiều nước láng giềng quả là không thể nào hiểu nổi.
Việc Trung Quốc liên tục tranh chấp biển đảo đã làm dấy lên tình cảm chống Trung Quốc ở các nước láng giềng. Danh sách các nước đang thách thức Bắc Kinh đang bao gồm “các cầu thủ lớn” trong khu vực Đông Nam Á. Lo ngại về sự bành trướng của Trung Quốc dẫn đến việc nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á ký kết hiệp định hợp tác quốc phòng mới với các cường quốc ngoài khu vực và chi tiêu quốc phòng nhiều hơn. Đối với Bắc Kinh, diễn biến đáng báo động nhất là nhiều chính phủ trong khu vực tăng cường quan hệ với Washington và chấp nhận sự hiện diện của Mỹ trong khu vực.
20:55 PM, 20-05-2014
MINH ĐỨC
Mỹ tăng cường siết chặt vòng vây với Trung Quốc
(BDV) - Nhằm kiềm chế một TQ ngày càng hung hăng và manh động, Mỹ đã tăng cường hợp tác với các nước láng giềng của TQ và là đối thủ của nước này.
Hôm 19/5 vừa qua, Mỹ đã lên tiếng muốn tăng cường hợp tác sâu rộng hơn với Hải quân Ấn Độ khi chính phủ mới ở nước này được thành lập, theo Đô đốc Jonathan Greenert, chỉ huy các chiến dịch Hải quân của Mỹ.
Ông Jonathan Greenert cho biết Mỹ muốn nhìn thấy sự hợp tác Mỹ - Ấn được mở rộng với sự tham gia của các Ấn Độ vào các cuộc tập trận ở Tây Thái Bình Dương, nơi Trung Quốc ngày một lấn tới.
"Cơ hội cho việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa 2 nước lại đang xuất hiện", ông Greenert nói và cho biết thêm hai nước từng có ý định xây dựng quan hệ này từ giữa những năm 2000 và giờ là thời điểm thích hợp để nối lại. "Chúng tôi từng tham gia nhiều sự kiện cùng nhau khi đó. Sẽ là điều tốt nếu sự hợp tác song phương trở lại mức cao như trước".
Tuyên bố trên được đưa ra sau khi ông Narendra Modi - một người theo đường lối dân tộc và Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP) giành chiến thắng vang dội trong cuộc tổng tuyển cử vừa qua ở Ấn Độ.
Kết quả này sẽ bảo đảm ông Modi, thủ tướng Ấn Độ sắp tới nắm quyền kiểm soát lớn hơn đối với chính sách an ninh của đất nước. Giới phân tích cho rằng chính phủ của ông Modi sẽ có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Sát thủ săn ngầm P-8A Poseidon
|
Không phải đến giờ người Mỹ mới nhân ra cần phải tạo nên thế trận siết chặt Trung Quốc. Ngay từ năm 2012, Washington đã cho phép hãng sản xuất Lockheed Martin Corp bán hệ thống phòng không Patriot tiên tiến cho Đài Loan. Đáng chú ý là những khí tài được mua bán thuộc những thế hệ tốt nhất trong dòng tên lửa Patriot, dư sức bắn hạ tên lửa tầm ngắn, tầm trung của Trung Quốc.
Chưa dừng lại ở Patriot, Nhà Trắng còn bán các loại máy bay trực thăng chiến đấu Black Hawk, Apache AH-64, chiến đấu cơ F-16, nhiều hệ thống vũ khí hiện đại khác; cũng như cân nhắc giúp Đài Bắc thiết kế, sản xuất tàu ngầm tân tiến...để thu hẹp khoảng cách với Bắc Kinh.
Và dù Mỹ vẫn chấp nhận lập luận của Trung Quốc rằng, đảo Đài Loan là một phần lãnh thổ của họ, rằng Mỹ tôn trọng chủ quyền của Bắc Kinh đối với hòn đảo này... nhưng Washington vẫn đẩy mạnh các mối quan hệ ngoại giao (dù không chính thức) với Đài Loan; đồng thời cung cấp cho họ các biện pháp bảo vệ an ninh thông qua Đạo luật quan hệ với Đài Loan...
Không chỉ tăng cường quan hệ với đảo Đài Loan, hiện nay Mỹ không ngừng khẳng định mối quan hệ đặc biệt với đồng minh thân cận số một ở châu Á-TBD là Nhật Bản. Mỹ đang duy trì số lượng lớn quân cùng hàng loạt thiết bị và vũ khí hiện đại tại căn cứ quân sự ở tỉnh Okinawa Nhật Bản.
Hồi cuối năm 2013, Mỹ tiếp tục điều 6 “sát thủ săn ngầm” P-8A đến Nhật Bản nhằm phong tỏa biển Hoa Đông trước những đe dọa từ Bắc Kinh đối với Tokyo. Ông Hiroshi Takeda - Tư lệnh lực lượng phòng vệ Okinawa cho hay, căn cứ không quân Kadena thuộc tỉnh Okinawa của Nhật Bản đã được lựa chọn để triển khai 6 “sát thủ săn ngầm” P-8A của Mỹ.
Trước một TQ ngày càng hung hăng, liên minh Mỹ-Nhật đã quyết định tăng cường giám sát các hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biển Hoa Đông và giúp ASEAN nâng cao khả năng giám sát biển.
Theo truyền thông Nhật Bản đầu tháng Năm vừa qua, Mỹ đã phác thảo các kế hoạch liên quan tới các hoạt động của máy bay không người lái tại Nhật. Theo đó, 2 trong số 3 máy bay Global Hawk hiện đang đóng tại căn cứ không quân Andersen ở đảo Guam sẽ được triển khai tới căn cứ Misawa tại tỉnh Aomori (Nhật Bản) vào cuối tháng này.
Không chỉ tăng cường giám sát quân sự đối với Trung Quốc trên biển Hoa Đông, Nhật Bản và Mỹ còn có kế hoạch hỗ trợ các nước thành viên ASEAN tăng cường giám sát trên Biển Đông.
Tờ Yomiuri Shimbun ngày 19/4, cho hay Mỹ và Nhật sẽ cung cấp tàu tuần tra cho các nước thành viên ASEAN và hỗ trợ huấn luyện quan chức và thành viên thuộc lực lượng tuần duyên của các quốc gia này.
Nằm trong chiến lược tăng cường ảnh hưởng và kiềm chế Trung Quốc của Mỹ, ngoài Nhật Bản, Hàn Quốc tại khu vực Đông Bắc Á, với Đông Nam Á, Philippines cũng được Mỹ coi là đồng minh đặc biệt – là yết hầu có thể ngăn chặn sự hung hăng và hiếu chiến của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Tổng thống Obama (trái) bắt tay người đồng cấp Philippines Aquino
|
Vừa qua Mỹ quyết định tăng cường hiện diện quân sự ở Philippines bằng Hiệp định tăng cường hợp tác quốc phòng (EDCA) ký ngày 28/4 cho phép Mỹ hiện diện quân sự nhiều hơn ở Philippines nhưng “không nhằm khống chế Trung Quốc”.
Trên phương diện chung, EDCA cho phép Mỹ tiếp cận nhiều căn cứ quân sự của Philippines, gồm cả quân cảng Subic mà quân đội Mỹ phải rút khỏi hồi năm 1992 do phản đối của người dân địa phương và một quân cảng tiếp vận quan trọng ở tỉnh Palawan giáp Biển Đông.
EDCA còn cho phép binh sĩ, chiến hạm và chiến đấu cơ của Mỹ hiện diện luân phiên dài hạn hơn ở Philippines, bên cạnh đơn vị cố vấn chống khủng bố 700 người đóng tại miền nam nước này lâu nay. Ngoài ra, Mỹ cũng được phép triển khai tại các căn cứ hiện có của Philippines các phương tiện và thiết bị cứu trợ nhân đạo và hỗ trợ khắc phục thiên tai.
Đổi lại, hiệp định cho phép Philippines mua sắm khí tài quân sự cũng như xây dựng hạ tầng để triển khai các phương tiện này một cách dễ dàng hơn. Thứ trưởng Quốc phòng Philippines Pio Batino nói rằng thỏa thuận sẽ “giúp Manila có được phương tiện quốc phòng đáng tin cậy tối thiểu”. Còn thông cáo của Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định EDCA là “nền tảng hòa bình và ổn định trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương”.
Ngoài mối quan hệ thân thiết của Mỹ tại Đông Bắc Á và Đông Nam Á, Mỹ còn tiếp tục nỗ lực củng cố quan hệ đồng minh với Papua New Guinea, New Zealand và Australia.
Thứ Tư, 21/05/2014 06:53
T.Thành
Gây hấn biển Đông, Trung Quốc trả giá
Tàu Trung Quốc hung hăng phun vòi rồng sang tàu Việt Nam.
TP - Trung Quốc đang và sẽ phải trả giá đắt cho hành động ngang ngược hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. “Mũi khoan chính trị” của Trung Quốc tưởng như được tính toán rất kỹ, nhưng lại mắc hàng loạt sai lầm lớn về chiến lược.
Trước hết, xâm phạm trên vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rõ ràng thuộc chủ quyền Việt Nam, Trung Quốc đã ngang nhiên vi phạm luật pháp quốc tế. Cách diễn giải kỳ quặc của Trung Quốc về Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 không được bất kỳ ai thừa nhận. Điều đó cho thấy Trung Quốc sẵn sàng cậy mình nước lớn, vi phạm công pháp để tranh đoạt lợi ích. Hành động này chứng minh Trung Quốc không phải một cường quốc có trách nhiệm, hủy hoại nghiêm trọng uy tín nước này.
Thứ hai, Trung Quốc thể hiện là một quốc gia không đáng tin cậy, thường nói một đằng làm một nẻo. Ngoài miệng Trung Quốc cam kết thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông, nhưng trên thực tế lại làm ngược lại. Cắm giàn khoan khổng lồ xuống biển Đông, Trung Quốc phớt lờ các cam kết đa phương với ASEAN và song phương với Việt Nam. Điều này chỉ càng thúc đẩy các nước ASEAN rời xa, thậm chí muốn thoát hẳn khỏi quỹ đạo Trung Quốc, ngay cả một số nước trung lập như Indonesia và Malaysia trước đây còn lưỡng lự nay cũng thay đổi quan điểm.
Thứ ba, không ai còn tin vào cái gọi là sự “trỗi dậy hòa bình” Trung Quốc vẫn tuyên truyền. Hành động gây hấn đưa giàn khoan khổng lồ xuống biển Đông, được hộ tống bởi một lực lượng hùng hổ có thời điểm lên tới 130 chiếc bao gồm nhiều tàu chiến, máy bay chiến đấu, liên tục phun vòi rồng, đâm húc hỏng nhiều tàu chấp pháp dân sự của Việt Nam đã bộc lộ rõ bản chất hung hăng. Dù Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói Trung Quốc “không có gene xâm lược”, nhưng Tổng tham mưu trưởng quân đội và báo chí nước này lại lớn tiếng hăm dọa Việt Nam. Tổng giá trị giao thương thế giới qua biển Đông lên tới 5.000 tỷ USD mỗi năm, đây cũng là “yết hầu” kinh tế Trung Quốc. Nếu manh động gây chiến, chắc chắn “giấc mộng Trung Hoa” sẽ vĩnh viễn tan thành mây khói.
Thứ tư, Trung Quốc càng hung hăng bao nhiêu lại càng tạo thuận lợi cho chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Mỹ bấy nhiêu. Không thể biện bạch cho việc liên tục tăng chi tiêu quân sự, động thái gây hấn của Trung Quốc sẽ kích hoạt sự hình thành các liên minh tự nhiên trong khu vực nhằm đối phó các nguy cơ từ Trung Quốc. Trung Quốc vừa trao cho Nhật Bản một cơ hội tuyệt vời để hợp thức hóa quyền phòng vệ tập thể, đưa quân đội tham chiến ở nước ngoài ngay trong năm nay. Theo đó, Nhật Bản sẽ nhập trận trong 3 trường hợp sau: Khi an ninh của Nhật Bản bị đe dọa; Khi một đồng minh thân thiết của Nhật Bản bị tấn công; Khi một quốc gia bị tấn công đề nghị Nhật Bản điều binh trợ giúp.
Thứ năm, thử thách lớn đã thổi bùng sức mạnh đoàn kết vô địch, khơi dậy ý chí và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Trải qua bề dày lịch sử đầy giông bão và quá hiểu cái giá tàn khốc của chiến tranh, Việt Nam càng trân quý giá trị của hòa bình. Thế nhưng, dân tộc Việt Nam nắm trong tay chính nghĩa không bao giờ hèn yếu hay khiếp nhược trước kẻ thù, đặc biệt khi đứng trước vấn đề tồn vong hay chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng.
Cuối cùng, đến thời điểm này, không một quốc gia nào trên thế giới ủng hộ hay bênh vực hành vi khiêu khích, nguy hiểm của Trung Quốc. Sự cố chấp nước lớn chỉ khiến hình ảnh Trung Quốc bị hoen ố, thêm nguy cơ bị cô lập và sa lầy trong “chiếc bẫy” do chính họ giăng ra.
07:35 ngày 20 tháng 05 năm 2014
Đặng Vương Hạnh
Mỹ và Trung Quốc đang thực sự toan tính gì ở Biển Đông?
Tàu dịch vụ không số của Trung Quốc áp sát chĩa vòi rồng, phun nước vào tàu Kiểm ngư HP 926 của Việt Nam.
Hai bên đang cố gắng để bảo vệ quyền lợi và tránh một cuộc đối đầu mở liên quan đến căng thẳng hiện nay ở Biển Đông.
Tờ Wall Street Journal ngày 19/5 có bài xã luận cho rằng, ngay cả khi Trung Quốc đang ngày càng thể hiện quyết tâm thực hiện tham vọng phi lý ở Biển Đông, Mỹ vẫn khẳng định rằng họ không cần phải cố gắng để kiềm chế Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục nhấn mạnh cam kết “trỗi dậy hòa bình”. Liệu cả 2 nước có đang hành động giống như tuyên bố của họ?
Để có được câu trả lời chính xác cho câu hỏi nói trên không phải đơn giản. Một số người tin rằng câu trả lời là có nhưng số khác lại cho rằng cả hai bên đang cố gắng để bảo vệ quyền lợi của họ và tránh một cuộc đối đầu mở.
Mỹ không quan tâm kiềm chế Trung Quốc – chỉ là “đòn gió”
Mỹ đã nói rõ rằng, mục tiêu của họ không phải là tìm cách ngăn chặn Trung Quốc. Khi ở thăm châu Á hồi tháng trước, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố: “Chúng tôi không quan tâm đến việc kiềm chế Trung Quốc”.
Tuyên bố của nhà lãnh đạo nước Mỹ không khiến bất kỳ ai ngạc nhiên bởi nếu ông Obama tuyên bố ngược lại, điều đó sẽ kích hoạt phản ứng giận dữ từ Bắc Kinh, ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác quan trọng giữa hai nước, thậm chí có thể tạo ra xung đột trong khu vực.
Chiến lược của Mỹ đã rõ, nhưng không phải vì vậy mà Bắc Kinh có lý do để bị Mỹ thuyết phục hoàn toàn. Ngay trong nhiệm kỳ đầu giữ cương vị ông chủ Nhà Trắng, Tổng thống Obama đã khẳng định quyết tâm theo đuổi chính sách “xoay trục” sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chính sách này rõ ràng là nhằm vào Trung Quốc chứ không phải bất kỳ quốc gia nào khác.
Thêm vào đó, chính quyền Tổng thống Obama hiện đang thúc đẩy ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 12 quốc gia mà không có Trung Quốc, thay vào đó là đồng minh thân cận nhất của Mỹ là Nhật Bản – đối thủ hàng đầu của Trung Quốc.
Thêm vào đó, chính quyền Tổng thống Obama hiện đang thúc đẩy ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 12 quốc gia mà không có Trung Quốc, thay vào đó là đồng minh thân cận nhất của Mỹ là Nhật Bản – đối thủ hàng đầu của Trung Quốc.
Giàn khoan Hải Dương-981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Quân đội Mỹ cũng công khai kế hoạch điều chuyển lực lượng, theo đó, 60% các tàu của lực lượng Hải quân Mỹ sẽ hiện diện ở Thái Bình Dương vào năm 2020.
Trong khi đó, tháng trước, thông tin từ các phương tiện truyền thông đã chỉ ra rằng, lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương đang có các bước chuẩn bị để sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ các hành động khiêu khích của Trung Quốc trong tương lai tại các vùng biển tranh chấp ở châu Á. Trong đó có việc Mỹ sử dụng các máy bay ném bom chiến lược B2 cũng như tàu sân bay cho các cuộc tập trận gần vùng biển của Trung Quốc.
Ngoài ra, quân đội Mỹ cũng đang triển khai các đơn vị lính thủy đánh bộ đến Darwin, Australia; gửi thêm quân tới Philippines; tham gia hợp tác quân sự mạnh mẽ hơn với Nhật Bản và phát triển các mối quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam.
Trung Quốc có thật sự “trỗi dậy hòa bình”?
Mỹ có thể phủ nhận rằng nước này đang tham gia vào một nỗ lực để kiềm chế Trung Quốc nhưng Bắc Kinh lại xem chính sách xoay trục của Mỹ chính là động thái cản trở tham vọng của họ.
Đồng thời, ngay cả khi Trung Quốc phủ nhận việc nước này đang có ý định thay đổi trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu, nhiều chuyên gia và học giả quốc tế đã mô tả “sự trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc là “giả dối”.
Chưa đầy một tuần sau khi Tổng thống Mỹ Barack Obama hoàn thành chuyến công du châu Á, Trung Quốc đã ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan nước sâu Hải Dương – 981 của nước này trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Nguy hiểm hơn, Trung Quốc còn huy động một lực lượng lớn các tàu, trong đó có cả tàu quân sự để bảo vệ giàn khoan Hải Dương – 981. Các tàu Trung Quốc sẵn sàng đâm và sử dụng vòi rồng tấn công tàu chấp pháp của Việt Nam khi những tàu này tìm cách tiếp cận để yêu cầu phía Trung Quốc đưa giàn khoan hạ đặt trái phép ra khỏi Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tàu Trung Quốc dùng vòi rồng tấn công tàu Việt Nam (Ảnh AFP)
Trong khi Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược cho rằng họ “có chủ quyền không thể tranh cãi” với các quần đảo ở Biển Đông, Washington đã gọi những hành động mới đây của Trung Quốc ở Biển Đông là “khiêu khích và vô ích” đồng thời lên án hành động sử dụng vũ lực trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ.
Những động thái này của Trung Quốc chỉ chứng tỏ cho thế giới thấy rằng họ không ngần ngại sử dụng sức mạnh “cơ bắp” để bắt nạt các nước láng giềng và thách thức vai trò của Mỹ ở châu Á.
Ngay kể cả trước khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan nước sâu Hải Dương – 981 trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Thượng nghị sỹ Mỹ Lindsey Graham của đảng Cộng hòa đã lên tiếng cảnh báo về những hành vi nguy hiểm của Trung Quốc. Ông Graham cho rằng, hành vi “chống lưng” cho Triều Tiên, ăn cắp sở hữu trí tuệ của Mỹ và thực hiện nhiều cuộc tấn công mạng nhằm vào nước Mỹ là rất đáng lên án.
Nhà khoa học chính trị John Mearsheimer nhận định: “Trong tương lai, có thể sẽ có một cuộc cạnh tranh về an ninh hết sức căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc ở châu Á, căng thẳng thậm chí không loại trừ khả năng có thể dẫn đến nguy cơ chiến tranh”.
Tuy vậy, trên thực tế, cả hai bên đều hiểu rõ một cuộc đối đầu sẽ không mang lại lợi ích cho bất kỳ bên nào, đặc biệt là trong mối quan hệ kinh tế (kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước hiện đang đạt mức 500 tỷ USD/năm).
Ngoài ra, Mỹ và Trung Quốc cũng đã tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh quốc phòng. Cụ thể, Hải quân 2 nước đã có nhiều hoạt động hợp tác trong lĩnh vực chống cướp biển, hỗ trợ nhan đạo và an toàn hàng hải trong thời gian gần đây.
Mặc dù căng thẳng giữa Bắc Kinh với các quốc gia láng giềng vẫn đang âm ỉ - Trung Quốc vẫn sẽ cố gắng để không tạo ra hình ảnh một kẻ xâm lược trong mắt cộng đồng quốc tế bởi theo giáo sư Shen Dingli, phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Fudan: “Bắc Kinh hiện vẫn cho rằng họ có thể được hưởng lợi rất lớn từ chiến lược trỗi dậy hòa bình mà họ từng tuyên bố”.
Theo Hùng Cường
VOV
Báo Hong Kong:Trung Quốc đang chơi trò nạn nhân
Ngày 20/5, Trung Quốc vẫn duy trì hơn 90 tàu để bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981 đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam, sẵn sàng phun nước, đâm vào các tàu chấp pháp của Việt Nam. Trong ảnh: Tàu Hải cảnh Trung Quốc (phải) truy cản tàu CSB 4032 của Việt Na Ngày 20/5, Trung Quốc vẫn duy trì hơn 90 tàu để bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981 đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam, sẵn sàng phun nước, đâm vào các tàu chấp pháp của Việt Nam. Trong ảnh: Tàu Hải cảnh Trung Quốc (phải) truy cản tàu CSB 4032 của Việt Na
TP - Trung Quốc đưa tàu đến Việt Nam đón công dân về nước. Báo South China Morning Post của Hong Kong dẫn lời chuyên gia nói rằng, Bắc Kinh đang cố gắng tạo ra hình ảnh họ mới là nạn nhân.
Theo bài báo, Trung Quốc đang chơi trò nạn nhân trong việc đưa các công nhân về nước. Động thái này Trung Quốc cố tự tạo hình ảnh họ mới là nạn nhân, trong khi dư luận quốc tế đều chống lại những bước đi hung hăng của Trung Quốc ở biển Đông.
Ông Jonathan London, một chuyên gia về Việt Nam đang công tác tại Đại học Thành phố ở Hong Kong, nói rằng việc Trung Quốc đưa các tàu đến đón công dân của mình tại Việt Nam là để “phát đi khắp thế giới cảm giác rằng Trung Quốc là nạn nhân, tạo hình ảnh một Việt Nam mất ổn định, gửi tín hiệu xấu về một sự đe dọa trừng phạt”.
Ông Jonathan nói với South China Morning Post: “Động thái này có thể được hiểu là dấu hiệu cho thấy (Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình) đang muốn nhấn mạnh, chứ không phải làm giảm cảm giác về cuộc khủng hoảng, mà nếu đúng như vậy, sẽ là dự cảm xấu cho những ai hy vọng tình hình giảm nhiệt và các nỗ lực giải quyết khủng hoảng”.
Trong cuộc họp báo ngày 19/5, Phát ngôn viên Liên Hợp Quốc Stephane Dujarric cho biết, vấn đề căng thẳng trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được Tổng Thư ký Ban Ki-moon thảo luận với giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc nhân chuyến thăm nước này.
Tổng Thư ký một lần nữa bày tỏ quan điểm rằng, tất cả các bên phải kiềm chế tối đa và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Ông Ban Ki-moon thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 18 đến 22/5 theo lời mời của Chính phủ Trung Quốc, đồng thời tham dự Hội nghị Củng cố lòng tin ở châu Á (CICA) diễn ra tại Thượng Hải từ ngày 21 đến 22/5.
Philippines bàn hợp tác với Việt Nam
Trong khi đó, báo Philstar của Philippines hôm 20/5 đưa tin, Tổng thống Benigno Aquino III sẽ thảo luận vấn đề hợp tác quân sự với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến thăm của người đứng đầu Chính phủ Việt Nam tới Manila vào hôm nay, nhân dịp đoàn Việt Nam dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại thủ đô Manila.
Bộ Ngoại giao Philippines nói rằng, Tổng thống Aquino và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ thảo luận các vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có hợp tác quốc phòng, du lịch, thương mại và đầu tư. Cả Việt Nam và Philippines đều đang bị đẩy vào những căng thẳng với Trung Quốc trên biển Đông.
Philippines hôm 19/5 thông báo nước này đã đạt được đồng thuận với Indonesia để giải quyết tranh chấp biên giới biển sau 20 năm đàm phán, và hy vọng sẽ sớm ký kết hiệp định. Bộ Ngoại giao Philippines nói rằng, hai nước đã hoàn tất các phiên đàm phán từ cuối tuần qua tại Indonesia, với bản dự thảo hiệp ước và biểu đồ thể hiện biên giới đồng thuận đối với hai vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn ở biển Celebes và Mindanao.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose nói rằng, thỏa thuận này là tin vui trong bối cảnh tranh chấp biên giới trên biển Đông ngày càng nóng với những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, Đài Loan, Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam, Philstar đưa tin.
Người Việt tại Áo biểu tình phản đối Trung Quốc
Ngày 18/5, hơn 500 người Việt Nam đang sinh sống, làm ăn tại Áo tổ chức biểu tình trước trụ sở Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô Vienna để lên án hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc, kêu gọi Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế và rút ngay giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Đại sứ quán Việt Nam tại Áo cho biết, cuộc biểu tình đã thu hút cả sự tham dự của nhiều người bạn Áo và kết thúc trong tiếng hát đồng thanh bài quốc ca Việt Nam. Cùng ngày, nhóm người Việt tại Vienna tập hợp trong tổ chức R-Club đã tổ chức quyên góp được 1.000 euro gửi về nước ủng hộ các chiến sĩ cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư Việt Nam đang trực tiếp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
06:17 ngày 21 tháng 05 năm 2014
Trúc Quỳnh
Trung Quốc sơ tán thêm 4.000 người, gia tăng sức ép lên Việt Nam
Theo hãng tin Pháp AFP, hôm nay 19/05/2014 Bắc Kinh tiếp tục sơ tán hàng ngàn công dân Trung Quốc khỏi Việt Nam sau các vụ bạo động vào tuần trước, và các công ty du lịch ngưng các tour đến Việt Nam. Bắc Kinh đã đình chỉ một phần trao đổi thương mại với Hà Nội và khẳng định sẽ có những biện pháp trả đũa khác.
Tân Hoa Xã cho biết, chiếc tàu đầu tiên đã rời cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh hôm nay mang theo 989 người sơ tán. Tàu Ngũ Chỉ Sơn (Wuzhishan) sẽ về đến cảng Hải Khẩu (Haikou) sáng mai. Chiếc tàu thứ hai là Đồng Cổ Lĩnh (Tongguling) cũng lên đường hôm nay hướng về Hải Khẩu, ngoài ra hai tàu khác đang sẵn sàng. Tổng cộng có bốn tàu với khả năng đón tiếp 1.000 người mỗi chiếc đã được gởi đi để đưa 4.000 công dân hồi hương. Một số người Trung Quốc bị thương đã được đưa về nước trên hai chuyến bay.
Các vụ bạo động chưa từng xảy ra từ nhiều thập kỷ qua đã bùng nổ sau sự kiện Bắc Kinh đưa giàn khoan khổng lồ HD-981 đến vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa chiếm được của Việt Nam từ năm 1974, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Nhiều nhà máy của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore bị đập phá, hai người Trung Quốc chết và khoảng 140 người bị thương.
Hôm qua, chính quyền Việt Nam đã huy động một lực lượng hùng hậu để bóp nghẹt các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Biển Đông. Trước đó, đích thân Bộ trưởng Công an Trung Quốc Quách Thanh Côn (Guo Shengkun) đã gọi điện thoại cho người đồng nhiệm Việt Nam Trần Đại Quang với lời lẽ cứng rắn yêu cầu phải có biện pháp triệt để chấm dứt tình trạng bạo động.
Đến cuối tuần qua, Bắc Kinh đã đưa trên 3.000 công dân về nước. Các công ty du lịch Trung Quốc đã cho ngưng các tour du lịch đến Việt Nam. Trang mạng hàng đầu về du lịch Trung Quốc là Ctrip đã đề nghị các khách hàng dự định đến Việt Nam nên hoãn lại, và những ai đã đặt chỗ có thể được hoàn tiền.
Sau khi lên án Hà Nội « thông đồng » để xảy ra bạo động, hôm qua Bắc Kinh loan báo ngưng nhiều chương trình trao đổi song phương. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố : « Chúng tôi sẽ có những biện pháp khác tùy theo diễn tiến của tình hình ».
Hôm 16/5, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) thông báo hầu hết những kẻ kích động bạo loạn đều không phải là công nhân. Báo chí trong nước dẫn lời ông Mai Đức Chính, Phó chủ tịch TLĐLĐVN cho biết những người kích động có tổ chức rất chặt chẽ : chuẩn bị sẵn cờ, áo thun để phát cho công nhân, photocopy bản đồ tất cả các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, có bộ đàm liên lạc, sử dụng bom xăng để đốt các nhà máy.
Dư luận nghi ngờ chính Bắc Kinh đứng phía sau các vụ bạo động này vì nhiều mục đích : bôi nhọ Việt Nam, chặn đứng các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, đồng thời phá hoại nền kinh tế Việt Nam qua việc các nhà máy bị đập phá gây hoang mang cho các nhà đầu tư, chính quyền bị thất thu thuế, công nhân mất việc làm.
Hãng tin Reuters đưa tin tập đoàn Formosa Plastics của Đài Loan hôm nay thông báo sẽ yêu cầu chính quyền Việt Nam bồi thường thiệt hại do bạo động. Theo Formosa, thiệt hại tại một nhà máy luyện kim đang được xây dựng tại Vũng Áng, Hà Tĩnh lên đến 3 triệu đô la. Người dân địa phương khi trả lời RFI Việt ngữ tuần rồi nói rằng lao động của tập đoàn Formosa tại đây hầu hết là người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp vào Việt Nam.
Báo mạng WantChinaTimes của Đài Loan hôm 15/5 cho biết diễn đàn Thiên Nhai (Tianya) của Trung Quốc ngay từ hôm 18/3 đã đăng một bài viết công bố ba số điện thoại hỗ trợ giúp các nhân viên của tập đoàn Hoa Vi (Huawei) tại Việt Nam sơ tán khi bạo động xảy ra.
AFP nhắc lại, Bắc Kinh yêu sách chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông. Tại đây quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm năm 1974 làm cho 75 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa, và hiện đang tranh chấp quần đảo Trường Sa.
THEO RFI
Trung Quốc sơ tán thêm 4.000 người, gia tăng sức ép lên Việt Nam
Theo hãng tin Pháp AFP, hôm nay 19/05/2014 Bắc Kinh tiếp tục sơ tán hàng ngàn công dân Trung Quốc khỏi Việt Nam sau các vụ bạo động vào tuần trước, và các công ty du lịch ngưng các tour đến Việt Nam. Bắc Kinh đã đình chỉ một phần trao đổi thương mại với Hà Nội và khẳng định sẽ có những biện pháp trả đũa khác.
Tân Hoa Xã cho biết, chiếc tàu đầu tiên đã rời cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh hôm nay mang theo 989 người sơ tán. Tàu Ngũ Chỉ Sơn (Wuzhishan) sẽ về đến cảng Hải Khẩu (Haikou) sáng mai. Chiếc tàu thứ hai là Đồng Cổ Lĩnh (Tongguling) cũng lên đường hôm nay hướng về Hải Khẩu, ngoài ra hai tàu khác đang sẵn sàng. Tổng cộng có bốn tàu với khả năng đón tiếp 1.000 người mỗi chiếc đã được gởi đi để đưa 4.000 công dân hồi hương. Một số người Trung Quốc bị thương đã được đưa về nước trên hai chuyến bay.
Các vụ bạo động chưa từng xảy ra từ nhiều thập kỷ qua đã bùng nổ sau sự kiện Bắc Kinh đưa giàn khoan khổng lồ HD-981 đến vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa chiếm được của Việt Nam từ năm 1974, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Nhiều nhà máy của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore bị đập phá, hai người Trung Quốc chết và khoảng 140 người bị thương.
Hôm qua, chính quyền Việt Nam đã huy động một lực lượng hùng hậu để bóp nghẹt các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Biển Đông. Trước đó, đích thân Bộ trưởng Công an Trung Quốc Quách Thanh Côn (Guo Shengkun) đã gọi điện thoại cho người đồng nhiệm Việt Nam Trần Đại Quang với lời lẽ cứng rắn yêu cầu phải có biện pháp triệt để chấm dứt tình trạng bạo động.
Đến cuối tuần qua, Bắc Kinh đã đưa trên 3.000 công dân về nước. Các công ty du lịch Trung Quốc đã cho ngưng các tour du lịch đến Việt Nam. Trang mạng hàng đầu về du lịch Trung Quốc là Ctrip đã đề nghị các khách hàng dự định đến Việt Nam nên hoãn lại, và những ai đã đặt chỗ có thể được hoàn tiền.
Sau khi lên án Hà Nội « thông đồng » để xảy ra bạo động, hôm qua Bắc Kinh loan báo ngưng nhiều chương trình trao đổi song phương. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố : « Chúng tôi sẽ có những biện pháp khác tùy theo diễn tiến của tình hình ».
Hôm 16/5, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) thông báo hầu hết những kẻ kích động bạo loạn đều không phải là công nhân. Báo chí trong nước dẫn lời ông Mai Đức Chính, Phó chủ tịch TLĐLĐVN cho biết những người kích động có tổ chức rất chặt chẽ : chuẩn bị sẵn cờ, áo thun để phát cho công nhân, photocopy bản đồ tất cả các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, có bộ đàm liên lạc, sử dụng bom xăng để đốt các nhà máy.
Dư luận nghi ngờ chính Bắc Kinh đứng phía sau các vụ bạo động này vì nhiều mục đích : bôi nhọ Việt Nam, chặn đứng các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, đồng thời phá hoại nền kinh tế Việt Nam qua việc các nhà máy bị đập phá gây hoang mang cho các nhà đầu tư, chính quyền bị thất thu thuế, công nhân mất việc làm.
Hãng tin Reuters đưa tin tập đoàn Formosa Plastics của Đài Loan hôm nay thông báo sẽ yêu cầu chính quyền Việt Nam bồi thường thiệt hại do bạo động. Theo Formosa, thiệt hại tại một nhà máy luyện kim đang được xây dựng tại Vũng Áng, Hà Tĩnh lên đến 3 triệu đô la. Người dân địa phương khi trả lời RFI Việt ngữ tuần rồi nói rằng lao động của tập đoàn Formosa tại đây hầu hết là người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp vào Việt Nam.
Báo mạng WantChinaTimes của Đài Loan hôm 15/5 cho biết diễn đàn Thiên Nhai (Tianya) của Trung Quốc ngay từ hôm 18/3 đã đăng một bài viết công bố ba số điện thoại hỗ trợ giúp các nhân viên của tập đoàn Hoa Vi (Huawei) tại Việt Nam sơ tán khi bạo động xảy ra.
AFP nhắc lại, Bắc Kinh yêu sách chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông. Tại đây quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm năm 1974 làm cho 75 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa, và hiện đang tranh chấp quần đảo Trường Sa.
THEO RFI
Công ty Đài Loan đòi VN bồi thường
Người Đài Loan biểu tình phản đối tại văn phòng kinh tế văn hóa Việt Nam ở Đài Bắc.
Formosa Plastics Group, nhà đầu tư Đài Loan lớn nhất tại Việt Nam, đang đòi chính phủ Việt Nam bồi thường 3 triệu USD sau vụ bạo loạn chống Trung Quốc.
Vụ bạo loạn này làm hư hại nhiều nhà máy và theo dự kiến các công ty khác cũng sẽ đòi bồi thường.
Công ty Đài Loan này là nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên đòi chính phủ Việt Nam bồi thường sau khi những người biểu tình cướp phá các nhà máy của công ty này tại tỉnh Hà Tĩnh.
Vụ bạo loạn tại Công ty Gang thép Formosa Hà Tĩnh đã làm ít nhất một công nhân người Trung Quốc thiệt mạng.
Các phần tử “gây rối” đã tấn công hàng chục nhà máy khiến một loạt các công ty trong đó cả Apple và Nike bị buộc phải đình chỉ sản xuất.
Trong khi các cuộc biểu tình nhằm vào Trung Quốc, các nhà máy Đài Loan – và đặc biệt là những công ty sử dụng công nhân Trung Quốc – dường như đã hứng chịu tình trạng bạo loạn diễn ra trong vài ngày.
Đài Loan là nhà đầu tư lớn thứ ba tại Việt Nam, sau Nhật Bản và Hàn Quốc. Các công ty Đài Loan đầu tư 1.7 tỷ USD – một phần ba của tổng số vốn đầu từ trực tiếp (FDI) của Đài Loan – vào Việt Nam trong năm ngoái, theo Đài Bắc.
Con số này có nghĩa là Việt Nam lần đầu tiên trở thành quốc gia đông nam Á đón nhận FDI nhiều nhất từ Đài Loan.
Ông Tseng Hsien Chao, giám đốc vụ kinh tế của Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc, cho biết khoảng 290 công ty Đài Loan dường như đã bị tấn công, với thiệt hại có khả năng lên tới tổng cộng hàng trăm triệu đô la.
Phí tổn từ việc ngưng trệ sản xuất đang tăng lên vì một số doanh nhân chạy nạn bạo loạn hiện vẫn chưa quay trở lại.
‘Xử lý cấp chính phủ’
Ông cho biết một thỏa thuận bảo hộ đầu tư song phương năm 1993 giữa Việt Nam và Đài Loan qui định Hà Nội trên nguyên tắc chịu trách nhiệm tài chính đối với việc hủy hoại xảy ra vào tuần trước.
“Chính phủ Việt Nam nên phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại”, ông Tseng Hsien Chao nói.
DDK Group, một công ty Đài Loan chuyên sản xuất yên xe đạp gần Thành phố Hồ Chí Minh cho biết các cuộc bạo loạn đã gây ra khoảng thiệt hại koảng 4 triệu USD.
Richard Tsai, chủ nhà máy, cho biết sẽ đòi trả 2 triệu đô la từ hợp đồng bảo hiểm, nhưng ông cũng cho hay rằng sẽ đòi phần còn lại từ nhà chức trách Việt Nam.
Phòng Thương mại Đài Loan tại Việt Nam cho biết các công ty thành viên của tổ chức này đang đánh giá mức độ thiệt hại và sẽ đưa ra ước tính bằng con số Phòng Thương mại Đài Loan sẽ dùng để đòi bồi thường.
Ước tính sơ bộ từ chính quyền tỉnh Bình Dương mà Financial Times đọc được cho thấy có khoảng gần một phần ba trong tổng số 950 công ty nước ngoài ở Bình Dương đã bị hư hại trong vụ bạo lực. Chỉ tính riêng Đài Loan có 161 công ty bị hư thiệt hại, so với 24 từ Hàn Quốc và 11 từ Trung Quốc đại lục .
Ông Chen Borshow, tổng giám đốc của Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại TP Hồ Chí Minh, cho biết ông dự kiến các câu hỏi yêu cầu bồi thường phải được xử lý ở cấp chính phủ với nhau.
THEO BBC
Công hàm 1958 : một vấn đề thuộc phạm vi công pháp quốc tế.
Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc là một tuyên bố đơn phương về lãnh thổ và hải phận. Tuyên bố này tương tự như tuyên bố đơn phương ngày 23-11-2013 của Trung Quốc về « vùng nhận diện phòng không – ADIZ » ở vùng biển hoa Đông. Tuyên bố 1958 dựa trên các công ước về Luật Biển 1958 (điều chỉnh lại năm 1996 theo Luật Biển 1982) trong khi Tuyên bố về ADIZ thì dựa theo tập quán quốc tế đã có từ sau Thế chiến II.
Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau :
Điều 1 : Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3 : Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4 : Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.
Tuyên bố 4-9-1958 của Trung Quốc ghi rõ Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) thuộc về TQ (điểm 1).
Theo thông lệ quốc tế, các tuyên bố đơn phương có hiệu lực pháp lý ràng buộc cho các nước quan hệ, nếu các nước này không kịp thời lên tiếng phản đối hay bảo lưu (về một khoản nào đó). Trường hợp Tuyên bố « Vùng nhận diện phòng không » của TQ ngày 23-11-2013, các nước Nhật, Nam Hàn, Mỹ, cùng nhiều nước khác… đã tức thì lên tiếng phản đối. Một lẽ vì nó chồng lấn lên vùng nhận diện phòng không của Nhật và Nam Hàn đã thiết lập từ lâu, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sau đó vi phạm chủ quyền lãnh thổ của hai nước này.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau :
« Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. »
Tuyên bố này là một công khai, đơn phương « ủng hộ » : Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa « tán thành » đồng thời cam kết « tôn trọng quyết định » của Trung Quốc.
Nhiều tranh cãi chung quanh nội dung (và hình thức) và tính ràng buộc pháp lý của công hàm 1958. Nó « tán thành » việc gì và « tôn trọng » cái gì ? Ông Đồng có tư cách hay không để ra một tuyên bố về lãnh thổ ? V.V…
Sau đây một số ý kiến của tác giả về nội dung công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Tác giả quan niệm rằng, khi nào ta biết sự thật về giá trị và hiệu lực của công hàm này, khi đó ta mới có thể hóa giải nó. Vấn đề hóa giải thế nào, nội dung sẽ trình bày trong bài viết tiếp theo.
1/ Công hàm 1958 là một « tuyên bố đơn phương » :
Nhiều người gọi « công hàm » 1958 của Phạm Văn Đồng là « lá thư » của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai [1]. Thực ra việc gọi thế nào không quan trọng, mà quan trọng là trên quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu lực pháp lý hay không ?
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ [2] thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên tắc Hướng dẫn) có nội dung :
Des déclarations formulées publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch : Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng.
Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn :
5. Les déclarations unilatérales peuvent être formulées par écrit ou oralement.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn :
2. Tout État a la capacité d’assumer des obligations juridiques par des déclarations unilatérales.
Tạm dịch : Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc pháp lý qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có thể bị ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần tìm hiểu là bị « ràng buộc » về những điều gì ?
2/ Công hàm không có hiệu lực vì người ký không có tư cách pháp nhân
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay nói đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ý kiến này cho rằng ông Đồng không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lãnh thổ.
TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn « Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông[3] » nói về việc này như sau :
La note de Pham Van Dong ne contient aucune renonciation explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de la Chine. La portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de renoncer à une souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a pas la compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée Nationale de Viet Nam
Tạm dịch : Lá thư của Phạm Văn Đồng không hề nói đến việc từ bỏ chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này cũng không có giá trị bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông này, một thủ tướng không có thẩm quyền để nhượng lãnh thổ. Đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội.
Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp nhân, ý kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều 4[4] của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những người có tư cách để ra một tuyên bố. Nguyên văn điều 4 :
4. Une déclaration unilatérale n’engage internationalement l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à cette fin. En vertu de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de gouvernement et les ministres des affaires étrangères sont habilités à formuler de telles déclarations. D’autres personnes représentant l’État dans des domaines déterminés peuvent être autorisées à engager celui-ci, par leurs déclarations, dans les matières relevant de leur compétence.
Tạm dịch như sau : một tuyên bố đơn phương chỉ ràng buộc quốc gia (vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát xuất từ một quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng của họ, chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có quyền để thành lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia trong những lãnh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn đề thuộc lãnh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.
Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để ra một tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.
Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên bố.
Trường hợp tranh chấp[5] giữa Mã Lai và Singapour về các đảo Pedra Branca (tên Mã Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge (quan trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa án Công lý Quốc tế (CIJ) vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5 năm 2005.
Trước tòa, theo các chứng cớ lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được chủ quyền lịch sử của mình ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương quốc Johor, thế kỷ 15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được tiểu vương Johor nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm 1824, lãnh thổ bao gồm tất cả các đảo trong vòng 10 hải lý. Trong khi đó đảo Pedra Branca cách Singapour đến 24 hải lý. Nhưng trong một khoảng thời gian dài, từ năm 1850, vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mã Lai) đã không hành sử chủ quyền của họ tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây một ngọn hải đăng trên đảo năm 1850 thì không gặp sự phản đối nào của vương quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả lời lá thư của Singapour về chủ quyền đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng lâm thời Bộ ngoại giao vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca « không thuộc chủ quyền Johor ». Mặc dầu phía Mã Lai phản đối rằng viên bộ trưởng kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề « lãnh thổ ». Nhưng tòa đã bác lý lẽ này vì cho rằng tuyên bố đó không có ý nghĩa của một tuyên bố về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra Branca.
Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lãnh thổ và hải phận của TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền. Tranh chấp Hoàng Sa bắt đầu từ năm 1909, khi Trung Quốc lên tiếng đòi chủ quyền quần đảo. Lãnh đạo VNDCCH không thể không biết điều này.
(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ nước này, có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lãnh thổ nào đó. Trường hợp VN và TQ tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền lịch sử tại hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch sử, do chính từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có những tuyên bố, hay các động thái tương đương với sự « đồng thuận – acquiescement », các hành vi này được xem là tự nguyện « từ bỏ chủ quyền », VN có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ý nói rằng vấn đề chủ quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối với vùng lãnh thổ đó còn quan trọng hơn.)
Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn phương mà vai trò của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt lại, nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.
Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lãnh thổ Cisjordanie là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie đọc tuyên bố trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền chính thức của Jordanie trên vùng lãnh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với tinh thần hiến pháp của Jordanie, vì nhà vua không có thẩm quyền quyết định về phạm vi lãnh thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc gia nào (không phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu lực của tuyên bố cũng đã được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được thực sự độc lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành hình, nhưng vùng lãnh thổ Cisjordanie thực sự không còn thuộc thẩm quyền của Jordanie.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì vi hiến.
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo hiến pháp VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ ông Đồng làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một kết ước, có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ý kiến của TS Nguyễn Hồng Thao đã dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều hướng này.
Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng không phải là một « tuyên bố về lãnh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ nước VNDCCH.
Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước hết là một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ý chí của họ về chủ quyền của TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản và bề rộng lãnh hải 12 hải lý (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ tại vùng không gian và vùng nước thuộc lãnh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở điều 1 và điều 2.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của TQ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước này. Thực ra việc làm này không cần thiết. Bởi vì, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố của TQ không có điều gì phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối vì hệ thống đường cơ bản lấn biển khá xa).
Trường hợp Tuyên bố vùng nhận diện phòng không của Trung Quốc vừa qua cho ta thấy việc này.
Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu VN không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều gì đó liên quan đến nội dung tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố về « lãnh thổ » mà là một tuyên bố về « lập trường » của VNDCCH đối với những đòi hỏi của TQ về lãnh thổ và hải phận. Vì vậy tuyên bố này không vi hiến.
Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi ngược lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn có thể cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một văn bản « hành chánh » thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành vi) thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc gia nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi phối của luật pháp quốc tế.
Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn giữa luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.
Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes[6]. Công hàm này xác định chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes.
Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng công hàm 1952 vi hiến vì các vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ phải được thể hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, vì trực tiếp nhìn nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm 1952 bởi vì đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế thì phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lý lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế. Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ý chí của hai quốc gia cần phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie thì không công nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nhìn nhận các hết ước có tính qui ước (có sự đồng thuận của hai bên).
Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc gia khác, hiến pháp Colombie không nhìn nhận « tuyên bố đơn phương » là một văn bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của hai bên. Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một hiệp định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy ban này cũng từ khuớc vì cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng, ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là không có gia trị.
Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. Vì trên thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đòi hỏi vùng biển phía ngoài các đảo, có đầy đủ hiệu lực.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế.
Có ý kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của phía TQ vi phạm luật quốc tế. Ý kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế vì hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về Biển 1958.
Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn :
8. Une déclaration unilatérale en conflit avec une norme impérative du droit international général est nulle.
Tạm dịch : Một tuyên bố đơn phương mâu thuẩn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế thì nó không có giá trị.
Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế thì tuyên bố này không có giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.
Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường cơ bản của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn trong hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển để làm điểm cơ bản thì việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập quán này đã được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về đường cơ bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không có giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi vì, nếu bị chống đối, TQ (hay VN cũng như các nước có chung trường hợp), có thể sửa đổi để phù hợp với Luật biển 1982.
Vì thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có giá trị vì ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.
4/ Nội dung Công hàm 1958 :
Đây mới là điều quan trọng. VN có thể bị ràng buộc pháp lý ở các điểm nào trong nội dung bản tuyên bố 1958 ?
Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn :
7. Une déclaration unilatérale n’entraîne d’obligations pour l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et précis. En cas de doute sur la portée des engagements résultant d’une telle déclaration, ceux-ci doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter le contenu des engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte de la déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle a été formulée.
Tạm dịch : Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung của những cam kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của tuyên bố cũng như bối cảnh và trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau [7] giới hạn hiệu lực của công hàm 1958 ở « bề rộng lãnh hải ». Bà viết như sau :
« La déclaration de Pham Van Dong se tient strictement, il est vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer territoriale chinoise. Il est donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait ainsi « réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois » sur les archipels ».
Tạm dịch : Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nhìn nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam « tái xác định việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc » ở các quần đảo là điều không đúng.
TS Nguyễn Hồng Thao[8] cũng có cái nhìn tương tự, công hàm chỉ nhằm mục đích công nhận lãnh hải 12 hải lý. Ông cũng cho rằng công hàm có giá trị về chính trị hơn là pháp lý :
La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch : Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Ông Lưu Văn Lợi[9] cũng viết tương tự :
« Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lý. Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc? »
Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC[10], ta cũng tìm thấy ý nghĩa khá giống như vậy :
Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội dung văn bản không rõ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái gì) thì việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế. Đó là điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai đã diễn giải.
Nhưng văn bản có hai đoạn văn : Đoạn 1 « ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc ». Đoạn 2 : chỉ thị cho các cơ quan nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn thứ nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên bố khẳng định chủ quyền về lãnh thổ.
« Ghi nhận » và « tán thành » ở đây có nghĩa là VNDCCH tán thành quyết định của TQ mở rộng lãnh hải 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ trong danh sách mà TQ đã liệt kê trong Tuyên bố. « Triệt để tôn trọng » là VNDCCH tôn trọng « triệt để tôn trọng » quyết định lãnh hải 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ của TQ có liệt kê trong bản tuyên bố. Trong đó bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đã có ý kiến về công hàm này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute[11]” trên Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994 ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên nhân và nội dung công hàm 1958. Ông Đồng nói ngắn gọn, nhưng rõ rệt :
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông Nguyễn Mạnh Cầm :
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lãnh hải 12 hải lý như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai đã nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đã nhìn nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm thì biện hộ vì HS và TS thuộc miền Nam quản lý, việc ủng hộ là “cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc”.
Nội dung công hàm 1958 sẽ rõ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai quần đảo HS và TS. Ta sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng nội dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và TS dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng trên báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái này cho thấy chính phủ VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS[12]. Và đó cũng là mục đích của công hàm 1958.
Mặt khác, bà Monique Chemillier-Gendreau có viết[13] :
« Néanmoins, son silent devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan. »
Tạm dịch : dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.
Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả Monique Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.
Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. Vì HS và TS do VNCH quản lý do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học giả Monique Chemillier-Gendreau cũng có cái nhìn tương tự: “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.
Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là duy nhứt[14]. Trên thực tế, VN có hai vùng lãnh thổ do hai chính phủ khác nhau về ý thức hệ lãnh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc tế nước VN chỉ có một. Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lý thì có thể tuyên bố chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi vì, HS và TS thuộc bên nào quản lý thì chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy nhứt. Khi chủ trương một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lãnh đạo hai vùng lãnh thổ khác biệt, đều có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lãnh thổ, cho dù phần lãnh thổ này do bên này hay do bên kia quản lý.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông Đồng, đã xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến vấn đề chủ quyền” của các học giảMonique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Học giả Greg Austin[15], trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có ý kiến :
Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of DRV recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC territorial sea declaration. The note was a government to government communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia, the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim but supported it.
Tạm dịch: Trong tất cả các yếu tố do TQ đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói là công hàm của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của nước CHND TH. Công hàm này là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của công hàm là chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
5/ Về hoàn cảnh ra đời công hàm 1958:
Hầu như các bài viết của các học giả VN đều vịn vào lý do “chiến tranh”, lý do căng thẳng eo biển Đài Loan ở thời kỳ đó, lý do hai nước VN và TQ là “đồng chí, anh em” trong khối xã hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng Thao, trong sách đã dẫn[16], viết:
La note de Pham Van Dong a pour but de satisfaire une demande de la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la soutenir dans sa lutte contre la politique poursuivie par des Américains dans le détroit de Formose, qui menaçait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer territoriale.
Tạm dịch : Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục đích nhằm thỏa mãn việc yêu cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ TQ trong cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan, thời kỳ đó đã đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Trang web BBC[17] có tóm lược bài viết của “nhóm phóng viên biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:
bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc là thời điểm “có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan”.
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải thích là “đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp”, tức “chỉ là những tuyên bố mang tính chính trị và ngoại giao chứ hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý”.
Trên VOA[18], có bài phỏng vấn TS Hoàng Việt :
trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn còn như là anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đã trao trả lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy là lúc đó hai nước tình cảm rất là chặt chẽ với nhau.
Đã ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm :
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Lời giải thích này đã xóa đi tất cả những lý lẽ « vì hoàn cảnh » mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Bởi vì ai gây chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không phải là tình huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh thì ông Đồng sẽ không phải « nói như vậy ». Tức đã không ký công hàm, đã không nhượng trên giấy tờ chủ quyền HS và TS cho TQ.
Nhà báo Frank Ching[19] nhận xét lời giải thích này như sau :
Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo TS Balazs Szalontai :
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai:
Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.
Điều này tác giả cũng đã nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh đúng đắng về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước [20] gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến Nghị định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ thông qua cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rõ thể thức hòa giải trong các trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công ước. Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp này bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là mình không biết.
Như thế, việc dựa vào các lý do « hoàn cảnh » này kia, tình đồng chí anh em, tình trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực công hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn không thuyết phục.
« Hoàn cảnh » đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật Biển, đòi hỏi VN phải có « ý kiến » về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc một quốc gia VN duy nhứt buộc các chính phủ ở hai vùng lãnh thổ đều có trách nhiệm như nhau về lãnh thổ. Một vùng lãnh thổ thuộc bên nào quản lý cũng thuộc về quốc gia VN duy nhứt. Thay vì phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của mình ở HS và TS, VNDCCH lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.
Vịn vào hoàn cảnh « tình trạng chiến tranh », nhưng bên gây chiến là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến thì công hàm 1958 sẽ không hiện hữu.
Vịn vào lý do « đồng chí anh em » lại càng không thuyết phục. Trên quan điểm quốc tế công pháp, tình « đồng chí anh em » chưa bao giờ được một bên tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại” bình thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không chính thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lý. Đó là trường hợp tuyên bố của Bộ trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen[21], về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland ngày 22-7-1919.
Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch. Ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm đến vùng lãnh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy hành sử chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn được mở rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên tòan vùng Groenland. Ông hy vọng việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.
Trả lời, Thủ tướng Na Uy, ông Ihlen nói rằng :
« the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question ».
Tạm dịch: Chính phủ Na Uy sẽ không làm một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra Tòa Án Công lý Quốc tế (CIJ) phân giải thì « lời nói » của ông Ihlen được tòa nhìn nhận là một « tuyên bố đơn phương », có hiệu lực ràng buộc pháp lý. Tuyên bố này nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật quốc tế, được đặt tên là « Tuyên bố Ihlen ».
Tuyên bố Ihlen có thể so sánh với trường hợp « lời nói » của ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức ngoại giao TQ năm 1956. Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài « Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa ».
Chú thích
[1] http://www.talawas.org/?p=10228
[2] Texte adopté par la Commission du droit international à sa cinquante-huitième session, en 2006, et soumis à l’Assemblée générale dans le cadre de son rapport sur les travaux de ladite session (A/61/10). Le rapport, qui contient également des commentaires sur le projet d’articles, sera reproduit dans l’Annuaire de la Commission du droit international, 2006, vol. II(2).
[3] Nguyễn Hồng Thao, « Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông », Edition A. Pedone, ISBN 2-233-00451-5, trang 251.
[4] Xem ghi chú 2.
[5] Souveraineté sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge (Malaisie/Singapour),arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN 0074-4441 ; ISBN 978-92-1-071046-6
[6] Nguồn : xem ghi chú 5.
[7] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 122-123.
[8] Xem ghi chú 3. Trang 250.
[9] Xem ghi chú 1.
[10] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/01/080124_vietnamchinaphamvandong.shtml
[11] Nguồn: http://www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/frankching.htm
[12] Xem thêm bài viết của cùng tác giả : « Nhân nói chuyện về hiệu lực pháp lý của các bản đồ »http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/990463/index
[13] Xem ghi chú 7.
[14] Xem thêm bài « Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa : Thử bàn về tính liên tục và sự kế thừa giữa các « quốc gia » Việt Nam sau năm 1945 » của cùng tác giả. http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/868663/index
[15] Đoạn trích dẫn này do ông Trúc Lê đưa lên trên Net.
[16] Xem ghi chú 3, trang 250.
[17]http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/07/110720_daidoanket_article.shtml
[18] http://www.voatiengviet.com/content/south-china-sea-dispute-07-08-11-125223929/906357.html
[19] Xem ghi chú 9.
[20] http://treaties.un.org/doc/Treaties/1964/11/19641122%2002-14%20AM/Ch_XXI_01_2_3_4_5p.pdf
[21] Nguồn : Nations Unies A/CN.4/557. Commission du droit international. Cinquante-septième session. Huitième rapport sur les actes unilatéraux de l’État. Par Mr Víctor Rodríguez Cedeño, Rapporteur spécial.
[22] http://www.state.gov/r/pa/prs/ps/2012/08/196022.htm
[23] Xem bài « Việt Nam cần điều chỉnh lại chiến lược biển Đông » của cùng tác giả. http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235392
[2] Texte adopté par la Commission du droit international à sa cinquante-huitième session, en 2006, et soumis à l’Assemblée générale dans le cadre de son rapport sur les travaux de ladite session (A/61/10). Le rapport, qui contient également des commentaires sur le projet d’articles, sera reproduit dans l’Annuaire de la Commission du droit international, 2006, vol. II(2).
[3] Nguyễn Hồng Thao, « Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông », Edition A. Pedone, ISBN 2-233-00451-5, trang 251.
[4] Xem ghi chú 2.
[5] Souveraineté sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge (Malaisie/Singapour),arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN 0074-4441 ; ISBN 978-92-1-071046-6
[6] Nguồn : xem ghi chú 5.
[7] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 122-123.
[8] Xem ghi chú 3. Trang 250.
[9] Xem ghi chú 1.
[10] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/01/080124_vietnamchinaphamvandong.shtml
[11] Nguồn: http://www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/frankching.htm
[12] Xem thêm bài viết của cùng tác giả : « Nhân nói chuyện về hiệu lực pháp lý của các bản đồ »http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/990463/index
[13] Xem ghi chú 7.
[14] Xem thêm bài « Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa : Thử bàn về tính liên tục và sự kế thừa giữa các « quốc gia » Việt Nam sau năm 1945 » của cùng tác giả. http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/868663/index
[15] Đoạn trích dẫn này do ông Trúc Lê đưa lên trên Net.
[16] Xem ghi chú 3, trang 250.
[17]http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/07/110720_daidoanket_article.shtml
[18] http://www.voatiengviet.com/content/south-china-sea-dispute-07-08-11-125223929/906357.html
[19] Xem ghi chú 9.
[20] http://treaties.un.org/doc/Treaties/1964/11/19641122%2002-14%20AM/Ch_XXI_01_2_3_4_5p.pdf
[21] Nguồn : Nations Unies A/CN.4/557. Commission du droit international. Cinquante-septième session. Huitième rapport sur les actes unilatéraux de l’État. Par Mr Víctor Rodríguez Cedeño, Rapporteur spécial.
[22] http://www.state.gov/r/pa/prs/ps/2012/08/196022.htm
[23] Xem bài « Việt Nam cần điều chỉnh lại chiến lược biển Đông » của cùng tác giả. http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235392
THEO FB TRƯƠNG NHÂN TUẤN