04-16-2014 2:40:26 PM
SÀI GÒN (NV) - Dư luận Sài Gòn xôn xao vì phát giác chuyện động trời tại một phòng khám nha khoa ở quận 7, Sài Gòn.
Một ông tự nhận là nha sĩ, được thu nhận vào phòng khám để chữa răng cho bệnh nhân nhờ bằng giả. Ông này thú nhận đã được “cấp” bằng bác sĩ nha khoa giả mạo trong vòng ba ngày, tốn khoảng 50 triệu đồng, tương đương 2,500 đô la.
Bằng bác sĩ giả y như thật. (Hình: báo Tuổi Trẻ)
Báo Tuổi Trẻ cho biết, một đoàn thanh tra của Phòng Y Tế quận 7 đột ngột đến kiểm soát hoạt động của phòng nha khoa Việt Hàn Style, ở đường Huỳnh Tấn Phát quận 7 đã phát giác chuyện động trời ở đây. Khi được yêu cầu xuất trình giấy tờ, ông Trịnh Trúc Khiêm, 34 tuổi đưa một bằng bác sĩ nha khoa hệ chính quy của trường Ðại Học Y Dược Sài Gòn cấp, công nhận danh hiệu bác sĩ răng hàm mặt.
Một cuộc điều tra sau đó cho thấy, ông Khiêm xài bằng bác sĩ giả. Vì vậy mà nhiều bác sĩ tốt nghiệp trường Ðại Học Y Khoa Sài Gòn niên khóa 2002-2008 đều không biết ông này. Phòng Hành Chánh của trường Ðại Học Y Khoa cho biết, bằng giả của ông Trịnh Trúc Khiêm mua với giá 2,500 đô la được làm rất tinh vi, mà “mắt thường” của cán bộ đoàn kiểm tra không sao phát giác được. Báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Bùi Minh Trang, chánh thanh tra Sở Y Tế Sài Gòn nói đã phải nhờ trường Ðại Học Y Dược Sài Gòn xác minh rất nhiều văn bằng, nghi là giả trong thời gian gần đây.
Cuộc thanh tra của đoàn đại diện Phòng Y Tế quận 7 diễn ra chiều ngày 14 tháng 4, 2014 tại phòng nha Việt -Hàn Style cho thấy, cơ sở y tế này đã sử dụng người xài bằng giả điều trị bệnh răng cho người dân. Cũng theo báo Tuổi Trẻ, trong khi cuộc thanh tra diễn ra tại Việt-Hàn Style thì phòng khám nha khoa Nam Sài Gòn tọa lạc cùng con đường Huỳnh Tấn Phát, quận 7 lật đật đóng cửa. Cuộc kiểm soát sau đó cho thấy, phòng nha khoa “Hoàng Bảo,” tọa lạc tại thị trấn Nhà Bè, và “Nụ cười Việt” là hai cơ sở hoạt động “chui.”
Vẫn theo báo Tuổi Trẻ, trước đó truyền thông Sài Gòn đã đăng nhiều bài báo tố cáo hoạt động lừa đảo tại các phòng nha khoa, đặc biệt là sử dụng người không có chứng chỉ hành nghề, và bằng bác sĩ giả. Báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Bùi Minh Trang nói đang điều tra về dư luận cho rằng có cán bộ của ngành y ở Sài Gòn đứng ra “bảo kê” cho các phòng nha khoa hoạt động không có giấy phép và sử dụng người xài bằng giả. (PL)
Wednesday, April 16, 2014
CSVN có những cấp báo mật về nội tình chính trị Việt Nam đang ngày càng hỗn loạn
04-15- 2014
SBTN-Chưa bao giờ giới chóp bu về an ninh Hà Nội lại nhận được hàng loạt các báo cáo đáng ngại về tình hình an ninh chính trị trong nước như lúc này. Một nguồn tin hành lang cho biết giới chức an ninh Hà Nội đã phải liên tục họp kín trong tháng qua, để phổ biến các phương thức đối phó, nếu như có biến xảy ra.
Trong tháng 3 vừa qua, liên tiếp trong một thời gian ngắn, đã nổ ra ít nhất 4 cuộc biểu tình với quy mô lớn. Điều này cho thấy với chính sách “cai trị” nhân dân bằng thủ đoạn tàn độc của nhà cầm quyền, nhân dân khắp nơi luôn phải sống trong cảnh cùng cực, quyền làm người của người dân bị chà đạp… đã khiến cho người dân bị dồn tới bước đường cùng để rồi họ không thể cam chịu được mà phải vùng lên. Hầu hết giới bình luận thời sự trong và ngoài nước đều cho rằng, giờ đây sự mâu thuẫn của người dân đối với chính quyền trở nên đối kháng rõ rệt. Nỗi phẫn uất của người dân đã lên tới đỉnh điểm, sự sợ hãi của họ đã biến mất và họ sẵn sàng đổ máu để bảo vệ những quyền lợi của mình.
Ngày 4-4 mới đây, những người nông dân ở Văn Giang đã làm một lễ cắt máu ăn thề, quyết tử nơi đồng ruộng của họ, không để mất một tấc đất nào vào tay chính quyền. Buổi lễ diễn ra trong một không khí hùng tráng và xúc động, cho thấy ngay cả người nông dân chất phác, chế độ cộng sản đã không còn có thể tồn tại chung bầu trời, cuộc sống với họ được nữa.
Dương Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Thuận… lẫn trong những tiếng hô đối đầu với công an, là những tiếng hô Đả Đảo Cộng sản, được hưởng ứng mạnh mẽ. Nhiều năm trước, lời đấu tranh trực diện đã đảo cộng sản vẫn chưa rõ rệt, nhưng ngày nay, thì khắp nơi, chỗ nào cũng xuất hiện tiếng hô vang đó. Ngay trong Saigon, những cuộc tuần hành của dân oan, dù chỉ hơn 20 người, vẫn không thiếu khẩu hiệu đó.
Diễn tập trấn áp đám đông, trấn áp nổi dậy cũng được các lực lượng công an trang bị nặng diễn tập liên tục. Các cuộc diễn tập đó, buộc các lực lượng công an phải chuẩn bị đối phó với hàng ngàn người.
Rõ ràng trong dự trù của các quan chức lãnh đạo, kịch bản hỗn loạn của Việt Nam trong tương lai gần là điều không thể tránh khỏi.
Một thanh niên trong hàng ngũ bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, cho biết rằng lệnh chiến đấu khẩn cấp A1, tức dùng thực tập, hành động khi có biến cố lớn như đảo chính, lật đổ…được cấp trên phát lệnh diễn tập khẩn cấp thường xuyên. Nhưng ngay trong lòng những bộ đội này cho biết, họ cũng đã rất chán ngán với nhà nước này, mà sự thật đang diễn ra như lời tố cáo từng ngày. (N. Khanh)
HÒA HỢP HÒA GIẢI VÀ LÒNG THÙ HẬN
Việt cộng Nguyễn Thanh Sơn đi tuyên truyền hòa hợp hòa giải
HNSG2015-Chiến Tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng là ngày mà mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do đã mất đi quê hương của mình. Đã 39 năm qua, nhiều người cho rằng trải qua một thời gian dài như thế, thù hận gì cũng qua đi, để chúng trôi vào quên lãng , hảy xóa bỏ lòng thù hận, để cùng nhau xây dựng lại quê hương. Lời kêu gọi mới nghe qua, làm cho lòng nhiều người cảm thấy bồi hồi, muốn góp một bàn tay của mình bằng kiến thức, bằng tài vật , mà bấy nhiêu năm nay mình đã tạo dựng nên . Có một thiểu số người đã làm như vậy, nhưng đa số dứt khoát chống laị đề nghị đó. Taị sao lại chống cái đề nghị có vẽ như yêu nước như thế ?
Có rất nhiều lý do để chống lại:
- Về việc “hòa hợp,hòa giải dân tộc”:
Hòa hợp hòa giải thì phải là việc làm của cả hai phía : kẻ gây ra tội ác và nguời bị hại. Kẻ gây ra tội ác là “nhà cầm quyền cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Những kẻ cầm quyền của chế độ, chưa một lần công khai nhận tội do họ gây ra cho cả người dân hai miền Nam, Bắc kể từ khi Hồ chí Minh, tên tay sai của quốc tế cộng sản chủ nghĩa, cướp chính quyền năm 1945 cho đến tận ngày tháng hôm nay, chúng chưa từng xin lỗi với những đồng bào Việt Nam đã bị bọn chúng gây cho cảnh nước mất, nhà tan, bị cướp đi tài sản, gây cho gia đình họ phải phân ly, những đứa con phải mất cha mẹ anh em, gia đình quyến thuộc. Bỏ tù những công dân của Việt Nam Cộng Hòa trong những trại cải tạo trên toàn cõi Việt Nam, vô duyên cớ, vô pháp luật .
Kẻ gây nên tội ác đã không nhận tội, không xin tha thứ cho những tội lỗi của chúng đã làm, thì thử hỏi trên cõi đời nầy, có nguời bị hại nào chịu tha thứ cho những kẻ đã gây tội ác không biết hướng thiện đó ?
Những người kêu gọi hòa hợp hòa giải với bạo quyền Việt Cộng là những nguời không có óc, không có tim, hoặc là những tên cho rằng tiền bạc là trên hết, vì lợi ích tiền tài và quyền lực cá nhân mà quên đi cả lương tri, quên hết sĩ diện của một con người.
Hơn thế nữa, có một số người “không thèm” nghi đến dã tâm của bọn cầm quyền “nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa”, là những tên tay sai cho Trung cộng, sẳn lòng bán nước, bán dân để vinh thân phì gia. Họ đã viết những lá thư ngõ, gỡi cho bọn mãi quốc cầu vinh để yêu cầu nầy nọ, mà họ không biết rằng bọn tay sai Việt Cộng, nhứt cử nhứt động của chúng, đều phải xin lệnh của Hoàng đế Trung Cộng, mà Trung Cộng đang thực hiện âm mưu xâm chiếm nước ta, thì đời nào chúng chịu cho Việt cộng thả lỏng sự kềm kẹp người dân ? Cho nên những bức thư nầy chỉ là những tờ giấy lộn, đã bị chúng coi là những tờ giấy quảng cáo, đã vứt vào sọt rác mất rồi . Không những uổng công phí sức mà còn làm hại đến danh dự của những nhà trí thức Việt Nam nữa.
Bản chất của những tên đảng viên đảng cộng sản là ngoan cố. Trong lịch sữ của đảng cộng sản quốc tế, mấy ai nghe được, biết được, có tên cộng sản nào khi đang còn cầm quyền trong tay, biết hối lỗi, biết nhận tội, biết sửa sai bao giờ ?
Đối với cộng sản, muốn chúng nghe theo, chỉ có một cách là chỉa súng vào đầu rồi RA LỆNH cho chúng, họa may chúng mới nghe theo, không có yêu cầu, không có năn nỉ ỷ ôi gì đuợc cả .
- Về lòng thù hận:
Nếu không ở trong hoàn cảnh có người thân bị giết, tài sản của gia đình, thân nhân bị cướp, bị giựt ; Nếu không bị cướp mất hết tài sản do mồ hôi nước mắt tạo dựng nên, bị đuổi đi vùng kinh tế mới trong vùng đồng hoang nắng cháy, trong rừng sâu nuớc độc, không cách gì để tìm kế sinh nhai; Nếu không bị cầm tù trong những nhà tù trại cải tạo, bị sĩ nhục, bị hành hạ, bị bỏ đói, bị bắt làm trâu kéo cày, bị chia cách với cha mẹ, vợ, chồng, con cái, v.v.. thì không thể nào hiểu nổi lòng căm thù của người bị hại đối với bọn đã tàn hại họ.
Đối với những nguời không bị rơi trong hoàn cảnh của những thống khổ kêu trời không thấu, kêu đất không nghe, thì nói những chữ : “quên đi hận thù” rất dễ dàng. Nhưng còn những nguời bi hại bị thống khổ thì không thể quên được.
Quên đi thù hận làm sao được khi mà những kẻ đã tàn hại mình vẫn còn đang ngất ngưởng trên cao như ông hoàng, bà chúa ?
Quên làm sao được khi những kẻ ác ôn côn đồ vẫn còn tiếp tục hành hạ đồng bào mình, thân nhân mình bằng luật rừng rú, qua những hành động tàn ác như những tên thổ phỉ ?
Quên làm sao được khi những tên đầu trâu mặt ngựa trong bộ máy cầm quyền, làm tay sai cho ngoại bang Trung cộng, bán đất, bán biển, nhượng tài nguyên của Tổ Quốc Việt Nam cho đế quốc cộng sản Trung Hoa, coi dân mình như những tên nô lệ ?
Quên làm sao được những tên đảng viên cộng sản mất gốc, không coi trọng luân thuờng đạo lý, bỏ đi tình nghĩa đồng bào , độc ác khát máu ?
Quên sao được những tên cán bộ các cấp trong bộ máy cầm quyền của lủ vô thần cộng sản. Chúng đã vì quyền lợi ăn trên ngồi trốc, với lòng tham không đáy, đang cuớp giựt tài sản của nguời dân vô tội. Tài sản của bọn chúng tính ra không thua gì tài sản của những tỷ phú Tây Phương. Những tài sản nầy là xương là máu của những người dân thấp cổ bé miệng, là tiền hối lộ, tham nhủng, bán tài sản của quốc gia mà ra. Bọn chúng là những tên TƯ BẢN ĐỎ có độc quyền sinh sát trong tay.
Quên làm sao được những người vì tranh đấu cho tự do, tranh đấu cho quyền làm người , tranh đấu cho sự công bằng trong xã hội, tranh đấu cho tự do tín ngưởng , đã bị chúng đàn áp dã man, giam hảm hành hạ những nguời đòi hỏi quyền chính đáng cho dân tộc vào lao tù, bằng những luật lệ vô nhân tánh, bất chấp cả lời phê phán của cộng đồng quốc tế ?
Những căm hận hận nầy càng ngày càng chồng chất, tạo nên một sức mạnh chẳng đặng đừng, không thể van cầu được nữa. Nguời dân đang sống trong gọng kềm của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, đã hiên ngang đứng lên đòi lại quyền làm nguời,quyền làm chủ đất nước thân yêu, đòi laị tài sản đất đai của mình đã bị nhà nước cưởng đoạt, qua những cuộc biểu tình chống đối của dân oan, của thanh niên sinh viên, của những người còn quan tâm đến vận mệnh của Tổ Quốc .
Những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại, đang đứng lên, dùng mọi phương tiện sẵn có, ủng hộ và tiếp tay với những đồng bào quốc nội đang nổi dậy chống lại bạo quyền Việt cộng, với mục đích giải thể chế độ độc tài, khát máu đang cầm quyền.
Trong số đồng bào hải ngoaị đang đứng lên chống lại kẻ nội thù Việt cộng, và ngoại bang Trung cộng xâm lược, có hai thành phần: Người có thù hận và những người không có ân oán gì với Việt cộng.
Người có mối thù với Việt cộng là những thuyền nhân đã bị bọn Việt cộng ác hại, đày đọa ,tài sản bị cuớp giựt bởi những thủ đoạn bất lương, bị nhốt trong những nhà tù khỗ sai mà bọn Việt công gọi là trại cải tạo, hoặc thân nhân của họ đã bị bọn cách mạng sát nhân giết hại , hoặc những người đã bị những nỗi oan khiên không bút mực nào diển tả cho hết, do bọn Việt cộng và bọn cách mạng ba mươi tạo nên.
Không những thế, những người chưa hề bị khốn khổ bởi Việt cộng, họ cũng đứng lên vạch mặt bọn dã thú đội lốt nguời mang tên Việt cộng. Những nguời nầy là ai?
Họ là những người vào thời điểm 30 tháng 4 năm 1975 mới vừa được năm ba tuổi, hoặc vẫn còn đang nằm trong bụng mẹ, hoặc đuợc sanh ra trên đất khách quê người, chưa từng chịu đau đớn, đọa đày bởi cái lủ “ cách mạng từ trong rừng chui ra”, chưa có ân oán gì với chúng. Cho nên trong lòng họ, không có thù oán gì với bọn việt công cả. Nhưng tại sao họ quyết liệt đứng lên chống lại chúng? – Bởi vì LƯƠNG TÂM và TÌNH CẢM của một con người đang sống trong một xã hội văn minh, hưởng được mọi quyền tự do căn bản của con người và được tự làm chủ đời mình. Lương tâm của một nguời không thể ngồi yên nhìn đồng bào Việt Nam của mình, đang bị một bầy quỷ khát máu, mạng danh là nhà “cầm quyền cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, mà thật ra là bọn buôn dân bán nuớc, tay sai cho bọn Trung cộng, đang bóp hầu siết họng nguời dân, tước hết mọi quyền làm nguời, cuớp đoạt tài sản của những người dân mà họ đã nhọc nhằn, gian khổ mới dành dụm được, làm cho đời sống của những người dân thấp cổ bé miệng thua cả súc vật.
Những người trẻ tuổi nầy đã cùng nhau đứng lên chống lại bạo quyền không phải vì muốn trả thù (revenge), mà họ muốn đòi công lý, họ muốn trừng phạt (retribution) bọn người dã man đang đày đọa đồng bào của mình.
Bây giờ lại có vài tên tự gọi mình là trí thức, đã hợp xướng với bọn cầm quyền đảng và nhà nước việt cộng, kêu gọi mọi người hảy quên đi hận thù, hảy hòa hợp hòa giải dân tộc. Trong khi đó, bọn việt cộng vẫn còn đang trả thù, còn đang kỳ thị và trù ếm những người có liên hệ với chế độ Việt Nam Cộng Hòa, còn đang hành hạ những người cất vang tiếng nói, phản đối chế độ độc đảng độc tài cộng sản, phản đối cách cai trị của chúng, phản đối luật lệ rừng rú của chúng, phản đối nhà nước tay sai cho hán cộng, mà chúng chẳng cần hòa hợp hòa giải với họ, thì việc chúng đòi người khác tha thứ cho chúng, hợp tác với chúng là một điều nghịch lý, không tưởng.
Tóm lại, với cái nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghia Việt Nam, nguời ta không thể hòa hợp, hòa giải với chúng, mà chỉ có một cách duy nhất là cùng nhau đứng lên, lật đổ cái chế độ của bọn mọi rợ, dã man hơn cầm thú đó đi. Sức mạnh thúc đẩy tiềm lực vùng lên là do sự hận thù đã nung nấu triền miên, là do lương tâm và tình cảm của những những con nguời không vị kỷ, không vì quyền lợi cá nhân, mà chỉ vì tình nghiã ĐỒNG BÀO, vì ân sâu của TỔ QUỐC.
Lão Ngoan Đồng
CSVN đang tự vả vào mặt
HNSG2015-04-15 -2014
Gần đây, CSVN đột nhiên thả một số tù nhân chính trị. Có người đưa thẳng qua Mỹ định cư, có người đưa về nhà một cách lặng lẽ. Dĩ nhiên, trước đó thì an ninh đã tìm mọi cách để dụ dỗ, thuyết phục họ ký giấy hoặc nhận tội, hoặc đồng ý đi ra nước ngoài. Thực ra, không riêng gì số anh chị em Dân chủ đang bị tù đày, nhìều nhà đấu tranh Dân chủ khác, đang tự do ở ngoài cũng được Hà nội nhiều lần mớm ý cho đi định cư nước ngoài. Nói cách khác, họ muốn tống các của nợ cho rảnh tay đối phó. Cứ tưởng tượng mỗi ngày Hà Nội phải chi tiền cho 5-6 an ninh chìm đi theo bảo vệ các anh chị em dân chủ, cứ nhân lên 10 lần hay hơn nữa, cũng đủ thấy tổn phí rất cao. Đó là chưa kể các khoản chi tiêu khác và những bất thường cho “tình hình an ninh”. Thượng sách là thuyết phuc họ đi định cư nước ngoài, trung sách là tìm cách cho an ninh, mật vụ, công an khủng bố, khuấy phá, chèn ép đến đường cùng để họ phải chạy qua các nước thứ ba xin tỵ nạn chính trị. Hạ sách, thì mới phải trấn áp, thủ tiêu, bịt miệng.
Áp lực nào đã làm cho Hà Nội phải nhượng bộ? Và trong danh sách phía Mỹ đặt vấn đề tại sao lại thả người này, trục xuất người kia, nhưng vẫn còn giam giữ người khác. Việc phiá Mỹ đòi thả tù nhân chính trị, đòi Hà Nội phải tôn trọng nhân quyền thì không chỉ mới xảy ra mà nó đã liên tục kéo dài từ nhiều năm nay. Họp Nhân Quyền thường niên Mỹ-Việt vẫn diễn ra đều đặn, và danh sách tù nhân bất đồng chính kiến thì càng lúc càng dài chứ không thu ngắn. Hai năm trước, Hoa Kỳ cũng đã ngán tận cổ trước thái độ ù lỳ của Hà Nội và họ có ý định dẹp các cuộc họp thường niên về Nhân Quyền vì nó vô ích, không thấy tiến bộ. Phiá Mỹ, cũng từng hỏi ý kiến nhiều anh chị em bất đồng ý kiến, có nên tiếp tục họp Nhân Quyền nữa không? Và nếu tiếp tục thì chủ điểm trao đổi điều gì chúng ta quan tâm.
Áp lực nào đã làm cho Hà Nội phải nhượng bộ? Và trong danh sách phía Mỹ đặt vấn đề tại sao lại thả người này, trục xuất người kia, nhưng vẫn còn giam giữ người khác. Việc phiá Mỹ đòi thả tù nhân chính trị, đòi Hà Nội phải tôn trọng nhân quyền thì không chỉ mới xảy ra mà nó đã liên tục kéo dài từ nhiều năm nay. Họp Nhân Quyền thường niên Mỹ-Việt vẫn diễn ra đều đặn, và danh sách tù nhân bất đồng chính kiến thì càng lúc càng dài chứ không thu ngắn. Hai năm trước, Hoa Kỳ cũng đã ngán tận cổ trước thái độ ù lỳ của Hà Nội và họ có ý định dẹp các cuộc họp thường niên về Nhân Quyền vì nó vô ích, không thấy tiến bộ. Phiá Mỹ, cũng từng hỏi ý kiến nhiều anh chị em bất đồng ý kiến, có nên tiếp tục họp Nhân Quyền nữa không? Và nếu tiếp tục thì chủ điểm trao đổi điều gì chúng ta quan tâm.
CSVN là chế độ độc tài, toàn trị. Việc đàn áp nhân quyền, giam giữ các tiếng nói đối lập đã là bản chất của chế độ. Do vậy, trừ truờng hợp phải nhượng bộ, bi áp lực phải xuống nước, hoặc phải mang “bị gậy ăn xin” ở nước ngoài, hay ở thế “thập tử nhất sinh” thì CS tuyệt không lùi bước. Cho nên, khi muối mặt phải thả tù chính trị, CSVN cũng chẳng vui vẻ gì. Về mặt nội bộ, họ đang bị áp lực vì “mất mặt”, khi “nhổ rồi lại liếm”, phải giải thích trong Đảng các chính sách linh tinh, “ta thả ra là vì nhân đaọ, khoan hồng”. Về dư luận thế giới, cho dù được tiếng có tiến bộ, thì tỳ vết cũng không thể xoá nhoà thành tích của Hà Nội, về đàn áp và vi phạm nhân quyền.
CSVN Cần Gì Ở Hoa Kỳ
Tình hình biển Đông là áp lực mà CSVN đang ngày đêm phải vuốt mặt để khấu đầu phương Bắc. Nanh vuốt và tham vọng của Trung Cộng đặt CSVN vào thế phải đi dây với Mỹ để cân bằng quyền lực với Trung Công, để giữ chế độ độc tài, toàn trị được tồn tại. Từ nhiều năm nay, CSVN đã nhiều lần muốn Mỹ viện trợ vũ khí quân sự, tân trang các thiết bị chiến tranh đã bị hỏng, và nhất là muốn mua hàng loạt các mặt hàng quân sự sát thương tối tân của Mỹ.
Năm 2012, đơn đặt hàng mua vũ khí sát thương của Việt Nam đã bị Mỹ từ chối. Thượng nghị sĩ John McCain tuyên bố “Hà nội đang có một danh sách dài về các vũ khí cần mua của Mỹ”. Tuy nhiên “quan hệ an ninh hai bên sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của lãnh vực nhân quyền. Thực chất đã không có tiến bộ, tệ hại hơn nữa lại còn vi phạm nhân quyền nhiều hơn trong thời gian qua”. Joe Lieberman, Thượng Nghị Sĩ có ảnh hưởng nặng ký của Quốc Hội Mỹ cho biết “Có nhiều vũ khí Việt Nam muốn mua và Mỹ cũng muốn chuyển giao cho họ, nhưng điều này chưa thể xảy ra được, trừ khi chính quyền Việt Nam chứng tỏ họ tôn trọng nhân quyền”.
Đó là thời điểm năm 2012, hai năm sau thì Hà Nội vuốt mặt, bắt đầu gạch tên các nhà Dân chủ đang bị giam để thay vào đó là đổi chác, mua bán danh sách các vũ khí sát thương. Việc đổi chác này, dù mục tiêu có khác, nhưng cũng giống như sự lập lại của thời ông TT George Bush khi cố lôi kéo Hà Nội vào quỹ đạo Hoa Thịnh Đốn bằng cách ủng hộ CSVN vô Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) năm 2006. Hà Nội đã giả vờ cải cách hàng loạt về nhân quyền, về tự do tôn giáo; sau đó, Hà Nội đã lật lọng trở tay đàn áp khi đã đạt mục tiêu vào WTO.
CSVN cũng rất cần Hoa Kỳ thuận thảo để Hà Nội có thể vào được Hiệp Định Thương Mại Thái Bình Dương (Tran-Pacific Partnership) vì nó là cái phao để cứu vãn nền kinh tế đang bị giẫy chết. Tuy nhiên, trên nguyên tắc, TPP không ràng buộc nhiều về lãnh vực nhân quyền. Để vào được TPP, Hoa Kỳ buộc Hà Nội phải thực hiện các bước cải tổ kinh tế có tính trong sáng, trong đó tôn trọng các quyền của công nhân, không bóc lột lao động và nhất là phải công nhận quyền thành lập công đoàn độc lập, không nằm trong hệ thống của CSVN. Điều này, thì Hà Nội rất khó thực hiện.
Ông Nguyễn Đình Lương, trưởng đoàn đàm phán Hiệp Định Thương Mại cho biết, ba vấn đề khi tham gia TPP, thứ nhất là quyền lập hội của người lao động, thứ hai cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp quốc doanh với các thành phần kinh tế khác cũng như sự bình đẳng trong cách khai dụng các nguồn lực, tài nguyên, vốn và thị trường; và thứ ba là vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Vì vậy, các động thái thả tù, bôi mặt để tỏ vẻ tôn trọng nhân quyền không phải là yếu tố cốt lõi để buộc Hà Nội phải làm nếu muốn vào TPP. Do đó, có thể đánh giá hành động thả tù của Hà Nội chỉ nằm trong dự phóng “gạch tên danh sách tù nhân” để được chuẩn y trong danh sách muốn mua “vũ khí quân sự’. Dĩ nhiên, ai thả, ai chưa, và ai sẽ nằm trong dự phóng bắt tiếp, vẫn còn tuỳ vào tình hình đổi chác và tính toán lợi hại của CSVN. Dù sao, nhờ vậy, thì chính quyền Obama mới có thể thuyết phục Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn y và không cản trở, khi Chính phủ Hoa Kỳ đồng ý bán một số hàng vũ khí chiến lược cho chế độ độc tài.
Tóm lại, mặc dù thay đổi chính quyền, từ Bush sang Obama, chính sách ngoại giao của Mỹ vẫn không thay đổi. Quan niệm chiến lược của bà Tiến sĩ Condoleezza Rice, cựu Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Mỹ thời George Bush, trong đó tóm lược các buớc chính sách đối ngoại đối với VN gồm “Ổn định trước nhất để nắm bắt cơ hội và sau đó mới thúc đẩy và khuyến khích nền tự do quốc gia. Chính sách này cần được thực hiện trong quan hệ đa phương và hợp tác song phương” vẫn là kim chỉ nam cho cả Bà Hillary Clinton lẫn ông John Kerry. Nói cách khác, một Việt Nam dân chủ, đa nguyên không phải là mối quan tâm hàng đầu của Mỹ, mà là môt Việt Nam đồng minh của Mỹ, tạo cơ hội để Mỹ tiếp cận, quan hệ và ảnh hưởng trước, rồi từ đó mới nhắm đến các mục tiêu chiến lược khác sau.
Nhất Cử Vô Số Tiện
Việc thả các tù nhân chính trị sẽ cho Hà nội một số lợi thế. Đối với những người bị trục xuất ra khỏi nuớc sống kiếp lưu vong, Hà nội đạt mục tiêu “điệu hổ ly sơn”. Các nhà dân chủ khi bị bứng ra khỏi cái nôi của mình thì sẽ như cá bị vớt ra khỏi nước, hổ bị xa rừng. Môi trường đấu tranh bị mất thì vị thế đấu tranh củng hỏng. Từ vai trò tiền tuyến trở thành hậu phương, yểm trợ. Mất thế trực diện, không đứng trên mảnh đất quê hương để đấu tranh mà sống lưu vong thì có khác nào cọp bị xa rừng.
Năm 1989, khi chính quyền quân phiệt Miến đề nghị trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi nếu bà đồng ý đi ra nước ngoài. Bà Suu Kyi đã từ chối, và đòi hỏi cho đến khi nào chế độ quân phiệt trở thành chính quyền dân sự và đồng ý thả hết tù nhân chính trị thì bà ra đi. Bà Suu Kyi biết điều này họ sẽ không làm được, và đó là cách từ chối khôn khéo để ở lại trên quê hương của bà. Khi chồng, ông Michael Aris bị chính quyền Miến từ chối chiếu khán vào thăm bà và ông đã chết trong cô đơn ở London năm 1999, bà Suu Kyi cũng gạt nước mắt, cương quyết không rời bỏ xứ sở, vì sợ rằng chế độ quân phiệt sẽ không cho bà cơ hội trở lại quê hương.
Mặt khác, khi đày ra nước ngoài, Hà Nội cũng sẽ “muợn dao giết người” để làm hỏng uy tín và tư thế của những nhà dân chủ bị lưu vong. Chính buá rìu dư luận, và mạng lưới tình báo vận sẽ mở chiến dịch bôi nhọ, nói xấu và làm hỏng uy tín. Chưa kể đến điều kiện sống và những khó khăn về kinh tế, xã hội, văn hoá ở môi trường lạ sẽ làm thui chột hết khả năng đấu tranh. Từ nhiều năm nay, có biết bao anh chị em đấu tranh dân chủ ở trong nước ra hải ngoại, phần lớn họ đều sống đời an phận thủ thường. Có rất ít những khuôn mặt nổi bật, có uy tín và còn tiếp tục hy sinh cho lý tưởng Dân chủ Việt Nam như Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ông Võ Đại Tôn hay cả nhà thơ quá cố Nguyễn Chí Thiện v.v…, nhưng chính họ cũng đã bị vùi dập, bị lời ong tiếng ve, bị chụp mũ và đau nỗi đau của kẻ sĩ, vì lực bất tòng tâm.
Thả tù chính trị, Hà nội cũng nhắm vào mục tiêu “biến cáo thành người”, vì tự vẽ mặt chế độ độc tài CSVN mang bản chất nhân bản, được tiếng tôn trọng nhân quyền đối với dư luận quốc tế, đạt được một số mục tiêu chiến lược, nhằm kéo dài tuổi thọ của chế độ độc tài.
Dù vậy, có thể nhận định là Hà Nội không ở vị trí thượng phong khi phải bôi mặt “thả tù chính trị”. Nó xác định thế cầu cạnh, yếu kém và xuống nước của Hà Nội đối với Mỹ vì các mục tiêu chiến lược. Nó cũng khẳng định bản chất tráo trở và ngoan cố của một chế độ độc tài, đã vô cớ đàn áp chính nhân dân mình chỉ vì họ can đảm lên tiếng một cách ôn hoà. Và sử dụng tù nhân chính trị, đồng bào của mình như một món hàng đổi chác cho các mục tiêu kinh tế, chính trị và quân sự. Điều này, cũng phi nhân tính, tàn bạo và không xứng đáng với tư thế của một chế độ được Cộng Đồng Quốc Tế quan hệ. Nói cách khác, tương lai của chế độ “thiếu nhân tính”, và “tàn bạo” như CSVN sẽ kết thúc và nhập vào dòng các chế độ độc tài bị lật đổ ở các nước Trung Đông như Libang, Ai Cập v.v… có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Cuộc Chiến Còn Tiếp Diễn
Cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài toàn trị là một cuộc chiến lâu dài. Nó không thành hình một sớm một chiều. Để có được thành quả hôm nay, chúng ta đã đi một quãng đường rất xa. Đây là một cuộc chiến có sự thay đổi theo qui luật, có tiếp nối và sóng sau dồn sóng trước. Khi lớp này mất đi, bị đào thải hay bị cô lập, thì không vì vậy mà phong trào dân chủ sẽ đi vào con đường thất bại, tuyệt vọng. Những năm 60 khi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện bước vào tù, hay sau những năm 1975 khi Bs Nguyễn Đan Quế, Giáo Sư Đoàn Việt Hoạt bị bắt, bị tuyên án tù, các anh đó chắc không tưởng tượng ra được chục năm sau, lại có những người như Bs Phạm Hồng Sơn, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Vũ Bình, Linh muc Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Công Nhân v.v… tiếp nối con đường đấu tranh chông gai, chống độc tài, toàn trị để dũng cảm bước vào tù. Cũng vậy, những anh chị em này khi trả những bản án tù man rợ, họ cũng không biết là sau họ, lại có những thế hệ khác đã và đang tiếp nối. Những Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Quốc Quân, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Thanh Nghiên, Vi Đức Hồi khi viết lên những bản án cho chính mình, thì cũng là lúc những Việt Khang, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đinh Đăng Định, Tạ Phong Tần, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng v.v… nhập cuộc. Đó chỉ là bề nổi của một tảng băng trong cuộc đấu tranh chống độc tài toàn trị. Hiện nay, phong trào dân chủ, vẫn còn có rất nhiều chiến sĩ dân chủ khác, đã và đang đấu tranh trên nhiều mặt trận, công khai lẫn bí mật.
Qui luật cho thấy, chúng ta sẽ mất đi một số tiếng nói dân chủ vì áp lực của chế độ, chúng ta cũng sẽ có một số người bỏ cuộc vì không chịu nổi sức ép của guồng máy an ninh. Cũng vậy, sẽ có người rút lui và cũng có người nhập cuộc. Dòng sinh mệnh và sức sống của Dân tộc sẽ đi tới, cho dù có bị các thế lực ngoại bang, tay sai vong bản tìm cách kéo lùi. Cuộc đấu tranh chống lại chế độ toàn trị, độc tài CSVN là một cuộc chiến tự nguyện, mỗi người là một chiến sĩ trên mọi mặt trận. Và đã là chiến sĩ tự nguyện, thì cũng đừng kỳ vọng người khác phải làm anh hùng cho mình, phải hy sinh cho mình và phải mẫu mực cho mình. Họ đã đóng góp trong một chừng mực, đã đánh đổi tương lai, sự nghiệp và đã cất tiếng nói dũng cảm. Họ đã hy sinh trong một giai đoạn, đã làm viên đá lót đường cho thế hệ tương lai tiếp nối, và đó chính là hướng thiện mà chúng ta cần trân trọng.
Hãy cứ can đảm đốt đuốc mà đi, thì trong chính bạn sẽ là những mẫu mực. Đừng sợ chúng ta sẽ thiếu nhân tố dân chủ cho dù CSVN có tìm mọi cách cô lập hoá anh chị em dân chủ. Thời gian đã minh chứng, dù bị đày ải để sống lưu vong hay dùng nhà tù để trừng trị, dập tắt khát vọng dân chủ thì chế độ độc tài, toàn trị cũng đã hoàn toàn thất bại. Chúng ta không sợ bị trấn áp, chúng ta không sợ bị đày ải, hay mất đi một số nhân tố dân chủ. Cái đáng sợ, chính là chúng ta đang thiếu vắng một chiến lược dân chủ.
© Đỗ Thành Công
Nổi Dậy Vì Quyền Sống…
04-16-2014
HNSG2015-Có phải đất nước đang bên bờ của những cuộc nổi dậy đòi quyền sống? Có phải bây giờ đã tới lúc chín mùi để các cuộc nổi dậy bùng phát vì ngừơi dân không còn chịu nổi những gánh nặng quan quyền xã hội chủ nghĩa trên vai? Và ngay cả những trận đàn áp vừa qua của công an, có phải sẽ chỉ là mồi lửa mới cho những cuộc nổi dậy tiếp theo?
Những diễn biến bạo động ở Hà Tĩnh, khi người dân vây bắt, trói, và giam 4 công an, khi chính quyền huyện Thạch hà tê liệt, khi nhiều cán bộ và gia đình phải bỏ trốn… gợi tới Xô Viết Nghệ Tĩnh, một cuộc nổi dậy gần một thế kỹ trước, cũng ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh.
Cuộc nổi dậy lúc đó được Tự Điển Bách Khoa Mở kể lại:
“Phong trào này được mở đầu bằng cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 năm 1930 của công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và nông dân thuộc 5 xã ven thành phố Vinh. Từ đó đến tháng 8 năm 1930, ở vùng Nghệ Tĩnh đã có đến 97 cuộc bãi công và biểu tình của công nhân và nông dân, trong đó đáng chú ý là cuộc bãi công kéo dài của công nhân Nhà máy Diêm đã dẫn đến cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân khu công nghiệp Bến Thủy…
…Nguyên nhân nổi dậy
Về mặt kinh tế: Chính quyền Pháp ở chính quốc thực hiện việc trút gánh nặng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 lên các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam làm cho đời sống người dân bản địa trở nên cơ cực, nhất là ở vùng Nghệ An – Hà Tĩnh, chính vì vậy những người dân ở đây đã phản kháng lại chính sách này để giành quyền dân sinh, dân chủ.
Về mặt chính trị: Chính sách khủng bố nặng nề về mọi mặt của đế quốc thực dân Pháp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái dẫn đến bầu không khí chính trị thêm căng thẳng và ngột ngạt, từ đó càng làm người Việt Nam thêm bất mãn, phẫn nộ và quyết tâm bạo động chống lại chính quyền Pháp và chính quyền địa phương…”(hết trích)
Có vẻ quen thuộc với những diễn tiến hiện nay ở Hà Tĩnh?
Đúng vậy.
Báo Người Lao Động hôm Thứ Hai 14-4-2014 kể:
“Sáng ngày 14-4, trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, đại tá Bùi Đình Quang – Phó giám đốc Công an tỉnh Hà Tĩnh – cho biết liên quan đến vụ gây rối trật tự công cộng, bắt giữ người trái phép tại xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Công an tỉnh đã tiến hành bắt giữ 4 người để phục vụ công tác điều tra.
Danh tính 4 người bị công an bắt giữ gồm Lê Văn Tình (27 tuổi), Nguyễn Thị Thuần (24 tuổi), Dương Hữu Tình (39 tuổi), Trần Hậu Thuận (42 tuổi), tất cả cùng trú ở xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà.
Trước đó, như báo Người Lao Động đã đưa tin, vào chiều ngày 10-4, tổ công tác gồm 6 cán bộ, chiến sĩ Công an tỉnh Hà Tĩnh, Công an huyện Thạch Hà đến nhà ông Trương Văn Trường (30 tuổi, trú thôn Trung Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà) thực hiện lệnh bắt tạm giam về hành vi gây rối trật tự công cộng thì bất ngờ hàng trăm người dân đã kéo đến la hét, chửi bới lực lượng công an. Không dừng lại đó, một số người dân kích động đã xông vào tấn công lực lượng công an, bắt giữ 4 chiến sĩ công an.
Ngay sau khi khi sự việc xảy ra, Công an tỉnh Hà Tĩnh đã huy động hàng trăm chiến sĩ đến hiện trường để giải cứu 4 công an bị bắt trói. Tiếp tục gặp sự chống đối quyết liệt của người dân, đã có 13 chiến sĩ công an bị người dân đánh phải nhập viện cấp cứu.
Đến tối ngày 10-4, lợi dụng đêm tối, hàng trăm người dân lại tiếp tục kéo lên đập phá trụ sở UBND xã, sau đó đến bao vây tấn công nhà các cán bộ xã Bắc Sơn. Hậu quả, nhà của nhiều cán bộ xã bị đập phá tan hoang, người dân còn đốt cháy nhiều xe máy. Được biết, người dân gây rối, tấn cống lực lượng công an là nhằm phản đối việc tỉnh Hà Tĩnh xây dựng nghĩa trang sinh thái vĩnh hằng trên địa bàn xã Bắc Sơn…”(hết trích)
Bản tin Đài RFA hôm 14-4-2014 nêu câu hỏi: Điều gì khiến người dân Bắc Sơn nổi loạn? Và rồi bản tin RFA ghi nhận:
“…Anh Trương Văn Trường bị công an cáo buộc là phá rối trật từ công cộng và đến bắt tại nhà là một cử chỉ dằn mặt người dân thôn Trung Sơn và xã Bắc Sơn vì nơi đây từ ngày 24/10 đến 20/11/ 2013 đã xảy ra 5 lần dân chúng chống lại người thi hành công vụ vì họ không đồng thuận với dự án xây dựng công viên vĩnh hằng, tức một nghĩa trang quy mô còn mang mỹ danh là nghĩa trang sinh thái chiếm diện tích đất gần 39 hecta với kinh phí 386 ti đồng.
Số đất mà công viên này trưng thu buộc người dân di dời, mất đất canh tác lên tới gần 20 héc ta và đây là lý do khiến họ nổi lên chống đối quyết liệt. Mặc dù được Ủy ban xã hứa hẹn là sẽ đền bồi thỏa đáng nhưng người dân không tin vào những hứa hẹn ấy và hơn nữa công viên nghĩa trang này sẽ ngăn cản xã Bắc Sơn không tiếp cận được với bên ngoài vì nghĩa trang nằm choán hết diện tích.
Trong đêm hôm ấy người dân đã nổi loạn thật sự khi ném đá vào nhà của cán bộ xã Bắc Sơn gồm những ông như Chủ tịch xã, Bí thư đảng ủy xã, Bí thư đoàn, cán bộ văn phòng và ngay cả trưởng công an xã cũng không tránh khỏi bị ném đá vào nhà và đốt xe gắn máy.
Cho tới hôm nay cán bộ của xã Bắc Sơn vẫn không dám về nhà, tất cả đều đưa vợ con đi lánh nạn vì sợ bị người dân trả thù. Việc này cho thấy sự uất ức của người dân đã vượt quá giới hạn khiến họ không còn sợ hãi. Trong khi đó người dân đi chợ hay tới những nơi khác bên ngoài xã Bắc Sơn đều có thể bị công an bắt giữ mà không ai hay biết. Anh Hòa cho biết:
“Người dân xuống đi chợ bị công an bắt không liên lạc gì được. Công an tự động bắt mà cũng không biết đưa đi đâu nữa. Một số cán bộ đã tránh đi hết coi như Bắc Sơn không có cán bộ nữa.”
Dự án khu nghĩa trang sinh thái đã bị dân tẩy chay ngay từ đầu nhưng huyện Thạch Hà và tỉnh Hà Tĩnh một mực buộc xã Bắc Sơn phải thực hiện cho bằng được…”(hết trích)
Báo Một Thế Giới ghi nhận rằng: “Chính Chủ tịch UBND xã Bắc Sơn Trần Bá Hoành thừa nhận không thể chống lại lệnh cấp trên dù đã có văn bản báo cáo tình hình chính trị đang bị tê liệt tại địa phương…. Chính quyền xã Bắc Sơn đã ngưng hoạt động từ ngày 10.4. Trụ sở xã đóng toàn bộ cổng… liên tục có những vụ gây rối mất trật tự của người dân khi nói về dự án. Từ đó đến nay, liên tục có 30 vụ.”
Trong khi đó, tác giả Xuân Lộc qua bài viết tựa đề “Đừng để ngọn lửa Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên lần thứ 2“ trên mạng Quê Choa đã kể:
“…Rất tiếc là cho đến nay, chính quyền thường cho mình quyền quyết định tất cả, với lý lẽ: đất đai thuộc sở hữu toàn dân và là chủ trương của đảng, nên áp đặt ý chí của mình bắt nhân dân phải chấp hành. Khi chủ trương không hợp lòng dân, nhân dân phản đối thì thay vì ngồi với dân để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ, chính quyền lại dùng lực lượng công an bắt bớ, khởi tố những người đứng đầu, gán cho họ tội gây rối trật tự công cộng, kích động bạo loạn…để nhằm mục đích trấn áp ý chí của người dân.Và cứ thế khoảng cách giữa dân-đảng ngày càng xa.Bây giờ thì niềm tin của nhân dân đã ở tận đáy rồi, Khi người nông dân bị dồn đến chân tường thì thử hỏi còn có cách nào khác ngoài việc bật dậy ?
Câu chuyện người dân Kỳ Anh quê tôi đoàn kết phản đối đoàn cưỡng chế, làm bị thương những người thi hành công vụ trong đó có cả ông chủ tịch huyện ngày 29/3/2014 ở Hải Phong-Kỳ Lợi, rồi cả ngàn người dân Quỳnh Văn-Quỳnh Lưu, Nghệ An bao vây đoàn cưỡng chế ngày 28/3/2014, và lớn hơn là việc người dân xã Bắc Sơn-Thạch Hà -Hà Tĩnh bao vây, đánh bị thương một lúc 9 công an, bao vây đập phá trụ sở xã vừa rồi, tôi cho là ít nhiều đều xuất phát từ lý do coi thường nguyện vọng của dân và áp đặt ý chí của chính quyền lên người dân như nêu ở trên. Bởi lẽ nếu chỉ có một vài người phản đối, có thể cho là họ vì quyền lợi cá nhân mình mà trở thành ” dân gian”, nhưng ở đây là một cộng đồng, hầu như là toàn bộ nhân dân cả một xã, kể cả vị bí thư đảng ủy và UBND xã đã nhiều lần gửi kiến nghị lên cấp trên, nhưng cả cái nhóm lợi ích của Hà Tĩnh vẫn cương quyết đi đến tận cùng với nhân dân, ép buộc cấp dưới phải thực thi mệnh lệnh…
…Đừng để cho ngọn lửa Xô viết Nghệ Tĩnh bùng lên lần thứ 2. Nó sẽ là dấu chấm hết cho một triều đại đấy.”(hết trích)
Đọc lại trang sử Xô Viết Nghệ Tĩnh, chúng ta thấy vẫn như rất là mới. Nhà nước Hà Nội bây giờ đã đóng vai nhà nước thực dân Pháp, và người dân Việt trong thế kỷ 21 vẫn không khác gì hoàn cảnh ông bà mình thời đầu thế kỷ 20…
Lực cản nào đã làm đất nước đi chậm tới cả trăm năm như thế? Hãy hỏi người dân khắp nước xem, hãy trưng cầu dân ý xem….
Trần Khải
PICS: Nhìn Lại Nền Giáo Dục VNCH - Sự Tiếc Nuối Vô Bờ Bến
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc.
Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.
Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người(không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này.
Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trongHiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục thời VNCH:
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận nhữnggiá trị văn hóa của nhân loại.
Giáo dục tiểu học:
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8] | ||
---|---|---|
Niên học | Số học sinh | Số lớp học |
1955 | 400.865 | 8.191 |
1957 | 717.198[9] | |
1960 | 1.230.000[9] | |
1963 | 1.450.679 | 30.123 |
1964 | 1.554.063[10] | |
1970 | 2.556.000 | 44.104 |
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.
Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dân và Đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Giáo dục trung học:
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).
Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…
Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học | |
---|---|
trước 1971 | sau 1971 |
lớp năm | lớp một |
lớp tư | lớp hai |
lớp ba | lớp ba |
lớp nhì | lớp tư |
lớp nhất | lớp năm |
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp | |
lớp đệ thất | lớp sáu |
lớp đệ lục | lớp bảy |
lớp đệ ngũ | lớp tám |
lớp đệ tứ | lớp chín |
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp | |
lớp đệ tam | lớp mười |
lớp đệ nhị | lớp 11 |
lớp đệ nhất | lớp 12 |
Trung học đệ nhất cấp:
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.
Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.
Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp.
Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Trung học đệ nhị cấp:
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.
Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.
Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học[8] | ||
---|---|---|
Niên học | Số học sinh | Số lớp học |
1955 | 51.465 | 890 |
1960 | 160.500[9] | |
1963 | 264.866 | 4.831 |
1964 | 291.965[10] | |
1970 | 623.000 | 9.069 |
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.
Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinhvà các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.
Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Bổ sung ( theo góp ý của đọc giả Nguyễn ):
Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.
Trung học kỹ thuật:
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề:
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.
Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.
Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.
Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học:
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.
Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Số liệu giáo dục bậc đại học: | |
---|---|
Niên học | Số sinh viên |
1960-61 | 11.708[45] |
1962 | 16.835[10] |
1964 | 20.834[10] |
1974-75 | 166.475[46] |
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ).
Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):
VNCH có nhiều trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:
Theo hệ thống của Pháp (ngày trước):
- Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).
Theo hệ thống của Hoa Kỳ:
- Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ(PhD).
Khó có thể so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau. ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).
Từ “ Thạc Sĩ ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).
Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).
Trong mỗi Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.
Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).
Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.
Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện.
Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.
Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục:
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng.
Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu:
Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.
Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.
Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật:
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.
Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.
NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.
Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.
Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.
Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.
Đời sống và tinh thần giáo chức:
Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470.
Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà.
Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.
THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:
- Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-53 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.
- Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.
- Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[98]
- Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969.[100]
- Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.
- Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
- Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.
- Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình
ĐÁNH GIÁ
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
…
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét)
…
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét)
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…“[106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“[107]
(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)